Ngay từ thế kỷ XVIII, các nhà triết học và chính trị học người Anh đã khẳng định: Quyền lực càng lớn, càng tuyệt đối thì sẽ dẫn tới sự tha hóa quyền lực nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có đặc thù riêng là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không có sự phân chia quyền lực. Song Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều giải pháp để kiểm soát quyền lực. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước là Nhân dân. Nhân dân là người làm chủ Nhà nước. Tuy nhiên, việc lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi vẫn thường diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức (CBCC), đảng viên. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu rất cao về kiểm soát quyền lực: ‘‘Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương’’[1].
Có nhiều loại quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực lập pháp, quyền lực hành chính, quyền lực tư pháp, quyền lực kinh tế, quyền lực thông tin… Trong các loại quyền đó, quyền lực chính trị có phạm vi, sức mạnh hơn hết vì nó có thể gây ảnh hưởng đến đông đảo người dân, áp đặt, kiểm soát, buộc đa số nhân dân phải tuân thủ những quy định pháp luật, thực thi những chuẩn mực giá trị của những người nắm Nhà nước… Trong xã hội dân chủ hiện đại, cá nhân, tổ chức không thể nắm quyền lực chính trị thông qua thuần túy sử dụng bạo lực. Quyền lực chính trị sẽ được ủy quyền cho đảng phái nào chiếm được lòng tin của đại đa số dân cư. Đảng phái được dân chúng tin tưởng qua bầu cử sẽ nắm quyền lực nhà nước. Mặc dù hiện tại quyền lực nhà nước vẫn còn mang tính chuyên chính, bạo lực (với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang và nhà tù), nhưng đã bị giới hạn chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật tương đối ổn định và nhất quán theo nguyên tắc pháp quyền (công dân dùng Nhà nước thực thi pháp luật bảo vệ quyền con người của mình) đi đôi với tăng cường giám sát của xã hội (thông qua các tổ chức đoàn thể, hội của công dân). Về bản chất, quyền lực nhà nước là sự ủy quyền của công dân cho bộ máy nhà nước đề ra, thực hiện một số quy định và giám sát sự quy định theo pháp luật nhằm làm cho quốc gia ổn định, phát triển, mỗi người đều được hưởng lợi nhiều hơn. Vì thế, công dân chỉ ủy quyền cho cơ quan nhà nước những quyền mà Nhà nước thực thi sẽ có lợi hơn là để công dân tự dàn xếp với nhau. Tuy nhiên, sau khi được thành lập, các cơ quan nhà nước, trong đó hạt nhân là CBCC, do được quyền tự chủ hành động trong phạm vi rộng rãi được luật định, đã có thể hướng việc sử dụng quyền lực nhà nước không chỉ giới hạn phục vụ lợi ích công cộng, mà còn cố ý làm lợi không chính đáng cho cá nhân họ hoặc những người thuộc nhóm nào đó. Thậm chí, CBCC dưới sức ép bầu cử, tiền bạc, địa vị, quan hệ… có thể hướng quyền lực ra khỏi mục tiêu phục vụ nhân dân, ưu tiên mục tiêu làm lợi cho cá nhân, nhóm lợi ích, làm tổn hại đến lợi ích chung. Những hành động vụ lợi đó, trong điều kiện coi trọng sở hữu riêng tư và chấp nhận phân phối của cải theo chế độ sở hữu là chính, đã tạo cơ hội tha hóa CBCC, làm phát sinh các hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền, thậm chí cả lộng quyền.
Để có thể lạm quyền, lợi dụng quyền và lộng quyền, cá nhân phải có một chức vụ hoặc vị trí làm việc trong hệ thống chính trị (HTCT) của Việt Nam với một thẩm quyền nhất định được Nhân dân giao cho. Vị trí làm việc dễ làm cho cá nhân sử dụng quyền lực công vì mục đích riêng. Đặc biệt, các chức vụ và vị trí làm việc được giao quyền quyết định càng lớn thì khả năng lạm quyền, lợi dụng quyền lực, lộng quyền càng cao, mức độ tác hại càng lớn.
1. Nhận diện hành vi lạm quyền
Theo từ điển Tiếng Việt[2], lạm quyền là “làm những việc vượt quá quyền hạn của mình”. Dưới góc độ quyền lực chính trị, lạm quyền là hành vi của CBCC trong thực hiện quyền lực chính trị theo những cách sai trái nhằm phục vụ lợi ích cho cá nhân họ hoặc nhóm lợi ích không đúng với các quy định trong hệ thống pháp luật của quốc gia, có thể gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; nếu không gây thiệt hại về mặt vật chất thì cũng đem lại tác động xấu về mặt đạo đức, tinh thần cho xã hội. CBCC chỉ có thể lạm quyền khi được giao cho một quyền hạn nhất định tùy thuộc vào chức vụ và vị trí làm việc. Không chỉ CBCC có chức vụ mới có thể lạm quyền, bất cứ CBCC nào thực thi công vụ có liên quan đến phục vụ công dân đều có thể lạm quyền, khi lái nghĩa vụ thực hiện thành quyền ban phát để vụ lợi. Lợi ở đây không chỉ là tiền, mà còn là quyền sai khiến người khác không phù hợp với quy định của pháp luật cũng như danh tiếng trong xã hội. Có một số dấu hiệu nhận diện hành vi lạm dụng quyền lực:
Người đó đã sử dụng quyền lực nhà nước một cách không công bằng đối với những người chịu sự phán quyết của họ. Ví dụ, lạm dụng quyền lực của người trong hội đồng thi tuyển nhằm cho “người của mình” điểm cao hơn, tạo cơ hội cho “người của mình” được vào làm việc hoặc được bổ nhiệm chức vụ cao hơn; chấm thầu cho “đối tác của mình” điểm cao hơn để “đối tác của mình” trúng thầu; phê chuẩn dự án của “người thân quen” trong nhiều dự án được đệ trình; xử án nhẹ cho người thân quen, xử án nặng cho người có tư thù; kiểm tra, thanh tra vượt quá tần xuất và phạm vi được phép nhằm gây áp lực cho người bị kiểm tra, thanh tra… Đằng sau những sự ưu ái và gây áp lực không cần thiết ấy là lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ, lợi ích nhóm,…
Những bất thường trong hành vi thực hiện quy trình, thủ tục công vụ không nhằm tới cải thiện chất lượng, hiệu quả công vụ. Bản thân quá trình thực hiện quyền lực chính trị đã được quy trình hóa có cơ sở khoa học. Vì thế, bất kỳ một CBCC nào khi thực hiện công vụ cũng phải tuân thủ các quy trình và thủ tục đã được quy định. Dù vậy, vẫn có một phạm vi tự quyết nhất định cho CBCC trong việc thực hiện quy trình, thủ tục. Đây là cơ hội cho CBCC lạm dụng quyền lực. Ví dụ, CBCC có thể thực hiện các thủ tục chậm hơn, nhanh hơn; có thể cung cấp thông tin đầy đủ hoặc không đầy đủ khiến người dân phải đi lại ít hay nhiều lần; có thể hỗ trợ hoặc không hỗ trợ công dân hoàn thiện hồ sơ; có thể giải quyết linh hoạt hay cứng nhắc các yêu cầu… Nếu CBCC xử lý công việc theo hướng cố tình gây khó khăn cho công dân đến làm các thủ tục của dịch vụ công nhằm đòi hối lộ hoặc trả thù cá nhân thì sự nhũng nhiễu đó chính là lạm quyền. Nếu sự chậm chạp và khó khăn đó do CBCC yếu kém năng lực hoặc quy trình và thủ tục lạc hậu thì không phải lạm quyền nhưng cần phải thay đổi, cải cách để bảo đảm chất lượng công vụ. Hình thức lạm dụng này rất đa dạng, tinh vi nên nếu không có sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ chặt chẽ, không tích cực tiếp nhận thông tin phản hồi từ người dân thì CBCC có thể tùy tiện xử lý công việc theo động cơ cá nhân của họ.
Tình trạng thu lợi không chính đáng của bản thân CBCC hoặc của nhóm lợi ích do công vụ tạo ra. Lợi ích không chính đáng có rất nhiều hình thức thể hiện đa dạng. Ví dụ, giải quyết trước cho người quen; ưu tiên nguồn lực công khan hiếm cho người quen; làm chậm thủ tục cho tổ chức nào đó nhằm giúp đối thủ cạnh tranh của họ vượt lên; cung cấp thông tin không công bằng, cung cấp thông tin nội gián…
Tư lợi trực tiếp từ dịch vụ công cung cấp cho công dân. CBCC lạm quyền dưới hình thức chỉ cung cấp đủ thông tin khi có quà cáp, đòi hỏi hồ sơ quá mức cần thiết khiến người dân phải hối lộ, viện dẫn khó khăn không đáng có trong quá trình làm thủ tục để người dân phải chạy chọt, lo lót… Thậm chí CBCC có thể làm trung gian môi giới trong cung cấp dịch vụ công cho những người nhận dịch vụ với mức phí thỏa thuận. Sự lạm quyền này đồng nghĩa với tham nhũng…
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của Nhà nước hoặc của công dân, doanh nghiệp, tổ chức khác. Ví dụ, lợi dụng quyền cấp sổ đỏ để chiếm đoạt đất đai của công để sử dụng tư, chuyển đất đang sử dụng của người này cho người khác; lạm dụng quyền tự chủ của người có chức quyền trong doanh nghiệp nhà nước định giá tài sản doanh nghiệp một cách sai trái (quá cao hoặc quá thấp so với giá thị trường) để hưởng chênh lệch; lạm dụng ngân sách nhà nước để hối lộ cấp trên, chi tiếp khách nhằm thăng tiến hoặc được phê chuẩn dự án có lời; lạm dụng quyền phê chuẩn các quyết định, chính sách có lợi cho nhóm lợi ích nhằm chung chi sau này; lạm dụng quyền kiểm tra, giám sát để bỏ qua sai phạm của đối tượng kiểm tra hoặc tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đối tượng kiểm tra sau đó nhận quà cáp trả ơn; lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác để chiếm đoạt tài sản của họ. Người bị hại do lo sợ rằng người lạm dụng quyền lực sẽ gây thiệt hại cho mình nên buộc phải để cho người đó chiếm đoạt tài sản; lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác chiếm đoạt tài sản của họ là trường hợp người phạm tội thể hiện những nội dung không đúng sự thật với người khác nhưng vì tin vào người có chức vụ, quyền hạn mà người có tài sản không nhận thức ra được đó là gian dối và để cho người lạm dụng quyền lực chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp nếu người lạm dụng không gian dối nhưng người bị hại vẫn tin mà giao cho tài sản và người có chức vụ, quyền hạn thì đó là lạm dụng sự tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản…
2. Nhận diện hành vi lợi dụng quyền lực
Theo từ điển Tiếng Việt[3] lợi dụng là dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để mưu lợi riêng không chính đáng. Theo đó, lợi dụng quyền lực do chức vụ và vị trí làm việc trong HTCT là hành vi thực hiện công vụ nhưng không hướng tới phục vụ lợi ích công, mà ưu tiên thực hiện mục tiêu riêng. Về bản chất, lợi dụng quyền lực chính trị là hành vi sai trái, phục vụ lợi ích không chính đáng của CBCC. Vì lợi ích của mình, gia đình mình, của nhóm lợi ích, mà CBCC lợi dụng quyền lực chính trị có thể hành động một cách tinh vi, xảo quyệt để đạt tới lợi ích riêng ngoài những lợi ích mà họ được hưởng theo quy định của pháp luật. Khi thực thi quyền lực, CBCC có thể lái các tác động của công vụ theo hướng có lợi cho cá nhân hoặc người thân, quen của mình, không chú ý tìm cách làm lợi cho lợi ích công cộng một cách vô tư. Vì thế, công vụ có thể được điều chỉnh theo hướng tận dụng các cơ hội không có lợi cho lợi ích chung, nhưng có lợi cho cá nhân, gia đình, nhóm của họ mà không vi phạm quy định, chính sách một cách nghiêm trọng như hành vi lộng quyền. Nếu có quyền ra quyết định, thay vì lựa chọn phương án tối ưu cho lợi ích công, CBCC lựa chọn phương án có lợi hơn cho lợi ích của họ và nhóm họ dù cho lợi ích công không đạt mức tối ưu. Khi đi kiểm tra, CBCC lợi dụng quyền lực có thể báo cáo không trung thực để che dấu cho người thân, quen, cánh hẩu với họ hoặc nhấn mạnh các tình tiết sai phạm nhẹ thành nặng để trừng phạt người chống đối mình… Nhìn chung, những kẻ lợi dụng quyền lực thường sử dụng quyền lực trái nguyên tắc liêm chính, vô tư. Một số dấu hiệu nhận diện hành vi lợi dụng quyền lực:
Lợi dụng quyền hạn ban hành chính sách có lợi cho nhóm lợi ích nào đó, làm giảm hiệu quả chung của nền kinh tế hoặc gây ra tình trạng không công bằng. Ví dụ, sử dụng quyền lực và ảnh hưởng trong Quốc hội, Chính phủ ban hành chính sách có lợi cho một số doanh nghiệp, ngành, địa phương không thuộc danh mục được ưu tiên; sử dụng quyền lực gây áp lực để phê chuẩn các quyết định có tính chất cục bộ, địa phương làm tổn hại lợi ích quốc gia…
Nhận lợi ích (tiền bạc, dịch vụ, danh tiếng) vượt quá khung khổ cho phép của pháp luật từ người thụ hưởng dịch vụ công. Nếu lợi ích là tiền bạc thì hành vi lợi dụng quyền lực đó là hành vi nhận hối lộ. Ví dụ, cán bộ Hải quan nhận học bổng cấp cho người thân từ doanh nghiệp mà họ phục vụ bất kể họ có thực hiện sai quy định quản lý hải quan hay không. Bởi vì các doanh nghiệp có thể hối lộ chỉ để cán bộ hải quan thực hiện đúng quy định của pháp luật. Họ sợ nếu không hối lộ, cán bộ hải quan sẽ lợi dụng các sơ hở của pháp luật gây khó dễ cho họ. Thủ trưởng nhận hối lộ để tuyển dụng người quen, người thân. Thủ trưởng nhận hối lộ để bổ nhiệm một người nào đó không có tên trong quy hoạch hoặc có tên trong quy hoạch, nhưng yếu hơn người khác về phẩm chất và năng lực. Người có quyền phê duyệt nhận hối lộ để phê duyệt dự án nhanh hơn. Nếu lợi ích là dịch vụ thì hành vi lợi dụng quyền lực bị che dấu bởi quan hệ mua bán với giá thấp, mua theo danh mục ưu tiên trước, mua độc quyền, mua theo giá thông thường với dịch vụ hậu mãi đặc biệt. Nếu lợi ích là danh tiếng hoặc địa vị thì đó là danh tiếng được áp đặt một cách khiên cưỡng cho CBCC khiến dư luận bất bình…
Thúc đẩy hoặc cản trở người khác làm chậm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm có lợi cho CBCC hoặc người thân, quen. Ví dụ, cán bộ cấp trên tác động vào cấp dưới để điều chỉnh công vụ (bổ nhiệm cán bộ là người thân; phê duyệt dự án của cánh hẩu; miễn giảm thuế, giá tiền thuê…) theo hướng có lợi cho họ; đe dọa cán bộ thanh tra, điều tra, kiểm toán cung cấp thông tin sai lệch; chỉ đạo tạm dừng cuộc kiểm tra, thanh tra; gây áp lực để cán bộ quản lý chi tiêu sai; gây áp lực để chỉ định thầu cho doanh nghiệp sân sau…
Lợi dụng quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý (tức tham ô). Có rất nhiều cách thức tham ô. Tham ô che dấu là sử dụng nghiệp vụ quản lý để che dấu các khoản biển thủ công quỹ bằng cách khai khống chi phí, khai khống danh sách được nhận tài sản do mình phụ trách sau đó biến chúng thành tài sản tư; che dấu doanh thu của ngân sách nhà nước để chi tiêu riêng; lập quỹ đen để chi tiêu ngoài sổ sách… Tham ô trắng trợn là câu kết với nhau lập hợp đồng giả, hồ sơ giả để rút tiền công quỹ chia nhau. Ngoài ra, những cán bộ thoái hóa còn tham ô bằng cách rút bớt nguyên, vật liệu, phụ kiện, thời gian, nhân lực dẫn đến hiện tượng cung cấp dịch vụ kém chất lượng. Phần kinh phí dôi ra để chia nhau. Một số cán bộ hải quan, thuế vụ còn có thể câu kết với doanh nghiệp khai khống hồ sơ xuất khẩu hàng hóa để tham ô tiền hoàn thuế giá trị gia tăng của Nhà nước. Công an giao thông tham ô tiền phạt hành chính vi phạm luật giao thông bằng cách cưa đôi tiền phạt với người vi phạm…
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. CBCC lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thường áp dụng các thủ đoạn: Cung cấp thông tin sai lệch nhằm uy hiếp tinh thần người có tài sản, qua đó lừa gạt họ; lợi dụng lòng tin, hứa hẹn giúp đỡ hoàn thành thủ tục hành chính; câu kết với cán bộ khác lợi dụng sơ hở của pháp luật và người ủy quyền chuyển tài sản của người ủy quyền cho người khác; lợi dụng quyền hạn gây áp lực xử án có lợi về tài sản cho mình; làm sai lệch hồ sơ để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Lợi dụng và lạm dụng là hai thuật ngữ khác nhau, mặc dù có mục đích chung như vụ lợi, vi phạm nguyên tắc đạo đức của người đại diện cho lợi ích chung. Lợi dụng thể hiện tính vụ lợi cao hơn, đôi khi dẫn đến kết quả lợi ích riêng lấn át lợi ích công. Lạm dụng có mức độ và phạm vi sai trái hẹp hơn. Khi lạm quyền, CBCC thường kèm lợi ích riêng với lợi ích chung, không đến mức lấn át lợi ích công. Lạm quyền đòi hỏi lợi ích công cộng phải được thực hiện nhưng kèm theo đó là lợi ích cá nhân cũng vượt mức đáng được hưởng. Lợi dụng quyền lực được thúc đẩy bằng động cơ thực hiện hành vi sai trái mạnh mẽ hơn lạm dụng quyền lực. Tuy nhiên, trên thực tế, ranh giới giữa hành vi lợi dụng quyền lực với hành vi lạm dụng quyền lực không phải bao giờ cũng được phân biệt một cách rạch ròi.
3. Nhận diện hành vi lộng quyền
Theo Từ điển tiếng Việt[4], lộng quyền là làm việc ngang ngược vượt quá quyền hạn của mình, lấn cả quyền hạn của người cấp trên. Lộng quyền trong lĩnh vực chính trị có một phần giống với lạm quyền là thực hiện công vụ chệch ra ngoài mục tiêu, khuôn phép được giao vì động cơ cá nhân. Tuy nhiên lộng quyền là hành vi nguy hiểm hơn lạm quyền. Nếu như người lạm quyền thường phải thực hiện hành vi sai trái một cách che dấu thì người lộng quyền thực hiện hành vi sai trái một cách ngang nhiên, ngang ngược, ngông cuồng gây bức xúc xã hội. Kẻ lộng quyền thường cao ngạo, coi thường người khác, thậm chí coi thường pháp luật vì họ tin rằng có thế lực đứng sau bảo vệ họ. CBCC lộng quyền thường có xu hướng hành động vượt ra khỏi khuôn khổ được phép, thậm chí coi thường cả cấp trên, quyết định cả những việc không thuộc thẩm quyền của mình, coi thường kỷ cương, phép tắc, chỉ coi mình là đúng, là nhất. Nếu không kiềm chế và trừng phạt CBCC lộng quyền thì trật tự, kỷ cương bị phá vỡ, người làm đúng sợ người làm sai, cấp dưới coi thường cấp trên, kết cục là mục tiêu chung không được coi trọng, mọi việc chịu sự chi phối theo ý muốn của CBCC lộng quyền. Lộng quyền có thể gắn với mục đích vụ lợi, có thể chỉ là hành động ngông cuồng của người không ý thức được thẩm quyền và trách nhiệm của mình. CBCC lộng quyền thường dễ bị phát hiện và dễ thu thập bằng chứng để trừng phạt hơn CBCC lạm quyền. Một số dấu hiệu nhận diện hành vi lộng quyền:
Thực hiện công vụ sai quy tắc, quy trình, thậm chí đặt ra một số quy tắc, thủ tục không được pháp luật quy định hoặc rút ngắn quy trình, bỏ qua các yêu cầu mà pháp luật quy định cần phải có theo kiểu tùy tiện. Bản chất của hành vi này là động cơ ngang ngược, cho mình là người có toàn quyền quyết định, không ai có thể trừng phạt được mình, nên giải quyết công việc theo cảm tính, thích ai thì giảm các yêu cầu xuống, ghét ai thì tăng yêu cầu lên; người mang lại lợi ích cho mình thì tạo điều kiện thuận lợi, không mang lại lợi ích cho mình thì tìm cách gây khó khăn, thậm chí trả thù, làm hại họ. Ví dụ, dễ thấy nhất là trù dập cán bộ, bằng cách đối xử với họ không công bằng, liên tục gây khó khăn một cách không cần thiết nhằm tạo cớ luân chuyển hoặc kỷ luật họ một cách oan ức; ngược lại, nếu ai đó là người thân tín thì họ sẽ tạo mọi cơ hội, ngụy tạo cả điều kiện để ưu ái, bổ nhiệm thần tốc, bố trí vào các vị trí có nhiều quyền lực và lợi ích bất chấp người đó có đủ năng lực thực thi hay không, bất chấp dư luận xã hội. Dễ thấy nhất của việc lộng quyền là cho triển khai dự án khi chưa được cấp trên phê duyệt; bỏ qua các khâu quan trọng hay gây áp lực để các cơ quan và người có trách nhiệm thực thi quy trình lập dự án đầu tư, thẩm tra lý lịch cán bộ… có những kết luận theo ý của CBCC lộng quyền…
Ra các quyết định trái thẩm quyền. Ví dụ, ra quyết định vượt quá thẩm quyền trong lĩnh vực cấp phép đầu tư, cấp quota, cấp các loại giấy phép con, cấp quyền sử dụng đất; can thiệp tùy tiện vào công vụ như việc xử án, chỉ định thầu; can thiệp vào các quyết định chuyên môn thuộc thẩm quyền của thủ trưởng đơn vị; ra các quyết định thuộc thẩm quyền của cấp trên;… Những hành vi này thường đem lại các hậu quả rất tai hại. Bởi lẽ, nếu mang các động cơ vụ lợi để gây ảnh hưởng đến quyết định của người khác sẽ làm tổn hại lợi ích chung, ít nhất ở phương diện không khách quan, không công bằng, thậm chí sai trái. Nếu không có động cơ cá nhân vụ lợi thì việc can thiệp vào lĩnh vực trái thẩm quyền sẽ gây hỗn loạn trong hệ thống, ảnh hưởng đến sự thống nhất trong phối hợp công việc. Ngoài ra, những người bị mất quyền cũng vì thế mà oán thán người lộng quyền, gây mất đoàn kết trong đơn vị.
Hống hách, độc đoán, chỉ coi trọng ý kiến cá nhân, phớt lờ ý kiến tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều hành công việc. Khi cần, những người này còn tìm cách thay đổi quy định để các quyết định sai trái của họ được thông qua và được thực hiện. Nếu ai dám chống lại, họ sẽ tìm cách hủy diệt đường công danh, thậm chí vu oan, giá họa cho người khác để trả thù. Đây là hành động nguy hiểm nhất, không chỉ phá vỡ trật tự, kỷ cương trong đơn vị, mà còn gây bất bình với những người liên quan và phá hoại tổ chức ở mức độ lớn. Nếu không có sự kiểm tra, trừng phạt của cấp trên thì rất khó có thể kiềm chế loại cán bộ này vì họ hầu như giữ toàn quyền trong đơn vị, không còn chút quyền nào cho người khác kiểm soát họ, không ai dám phản đối họ, vì thế họ càng tin mình đúng, càng tiếp tục lộng quyền.
4. Xây dựng cơ chế nhận biết và phòng ngừa các hành vi lạm quyền, lợi dụng quyền lực và lộng quyền.
Một là, phải có cơ chế rõ ràng để công khai, minh bạch tất cả chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan; chức trách, nhiệm vụ của từng CBCC; thủ tục, quy trình, thời gian giải quyết công việc… Công khai, minh bạch tất cả để Nhân dân biết, Nhân dân bàn, Nhân dân kiểm tra, giám sát. Tuyệt đối không để quyền lực Nhân dân giao tổ chức, cá nhân nào đó lại biến thành quyền lực của riêng tổ chức, cá nhân đó.
Hai là, thiết lập hệ thống thông tin phản hồi hiệu quả từ đối tượng chịu sự tác động của quyền lực, đó là các doanh nghiệp và người dân. Nhà nước ta nên khuyến khích các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức các cuộc thăm dò ý kiến của doanh nghiệp và người dân về chất lượng, thái độ và phương pháp làm việc của đội ngũ CBCC đảm nhiệm cung cấp dịch vụ công. Có thái độ tích cực, kịp thời trong xử lý các đơn thư khiếu nại, kể cả đơn thư không ký tên.
Ba là, thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực nhằm thường xuyên rà soát các quy trình, thủ tục, công vụ, công chức để phát hiện kịp thời các bất hợp lý và kiến nghị giải pháp điều chỉnh, sửa chữa, kỷ luật.
Bốn là, trừng phạt nghiêm khắc, kịp thời các cá nhân có hành vi lạm quyền, lợi dụng quyền lực, lộng quyền và khen thưởng các cá nhân liêm chính, công tâm, vô tư trong thực thi công vụ. Kiến nghị thực hiện trừng phạt nghiêm khắc đối với các cá nhân gây ảnh hưởng khiến CBCC buộc phải lạm quyền, lợi dụng quyền lực phục vụ họ.
Năm là, định hướng các phương tiện truyền thông phê phán mạnh mẽ các cá nhân có hành vi lạm quyền, lợi dụng quyền lực chính trị và lộng quyền./.
[1] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr. 203.
[2] Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ biên soạn, Nxb Đà Nẵng, 2006.
PGS. TS. Vũ Văn Phúc
Phó Chủ tịch chuyên trách HĐKH các cơ quan Đảng Trung ương