Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả - nhiệm vụ quan trọng của cải cách hành chính nhà nước

1. Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện được Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo; cùng với trọng tâm là cải cách kinh tế, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước đã được triển khai tích cực.

Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ kiểm tra công tác cải cách hành chính tại Quảng Ninh.

Các chủ trương, quan điểm về cải cách bộ máy nhà nước của Đảng và Nhà nước được hình thành, phát triển và cụ thể hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VII năm 1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định rõ 3 nội dung của cải cách hành chính là cải cách thể chế, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Tiếp đó, các quan điểm của Đảng đối với cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước lại được thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết Trung ương 4 và 5 khóa X. Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 09/02/2007 về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội (Nghị quyết Trung ương 4 khóa X) với một số quan điểm như: kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị; kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, vững mạnh, đủ sức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ; các bộ và cơ quan ngang bộ nói chung thực hiện chức năng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực; vừa bảo đảm sự ổn định cần thiết, vừa đổi mới để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước.

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (năm 2007) thông qua Nghị quyết về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước (Nghị quyết Trung ương 5 khóa X) đã xác định: “Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Trong đó, một số nội dung, quan điểm, giải pháp về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước được đặt ra, đó là: tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại và đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; tiếp tục hình thành bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; giảm phù hợp số đầu mối các bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành; không giữ các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước; chỉ duy trì một số cơ quan cần thiết thuộc Chính phủ là đơn vị sự nghiệp.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XII năm 2016 của Đảng khẳng định nhiệm vụ trọng tâm với mục tiêu đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong đó, một số nhiệm vụ trọng tâm có tác động quan trọng, ảnh hưởng lớn đến nhiệm vụ xây dựng một nền hành chính năng động, trách nhiệm, hiện đại, như: "Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ".

Để bảo đảm đạt được các mục tiêu về kinh tế - xã hội, Đảng ta đã xác định nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng, trong đó có giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, mà cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là một trong những nội dung rất quan trọng của cải cách hành chính. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước theo tinh thần cải cách hành chính là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp, có tính cách mạng, được tiến hành trong điều kiện còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý nhà nước trong cơ chế kinh tế mới. Việc thực hiện tốt chức năng của nền hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nền hành chính nhà nước với thị trường; xây dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế; tổ chức bộ máy; đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, điều đó thể hiện quyết tâm xây dựng một nền hành chính năng động và trách nhiệm, phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội.

Để cải cách tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước phải giải quyết nhiều vấn đề về nghiên cứu lý luận, khảo sát và tổng kết thực tiễn về cơ chế và chính sách, về tổ chức và cán bộ, đồng thời, cần được xem xét tổng thể tất cả các yếu tố, thông qua đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách hành chính, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về cải cách hành chính, từ đó đề xuất phương hướng, nhiệm vụ để tạo lập một nền hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, xây dựng tổ chức bộ máy hành chính nhà nước gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm người đứng đầu.

Thời gian qua, triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X, Chính phủ đã đề ra các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính mang tính toàn diện, đồng bộ và chỉ đạo triển khai một cách quyết liệt. Qua đó, nền hành chính đã có chuyển biến tích cực theo hướng nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của người dân, xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2. Kết quả cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước trong thời gian qua

Một là, thể chế về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từng bước được hoàn thiện. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của hệ thống hành chính được nâng cao, tính thống nhất, công khai, minh bạch của nền hành chính được cải thiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước có sự điều chỉnh phù hợp, bảo đảm quản lý nhà nước và phục vụ xã hội. Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi) năm 2015 đã bổ sung nhiều nội dung nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động và phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Chính phủ trong tình hình mới. Chính phủ đã ban hành các Quy chế làm việc của Chính phủ tại các văn bản, như: Nghị định số 179/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007; Nghị định số 08/2012/NĐ-CP ngày 16/02/2012 và Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01/10/2016, qua đó thường xuyên cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định cần thiết cho phù hợp với thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo, điều hành, hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước nói chung và của hệ thống hành chính nhà nước nói riêng.

Hai là, trên cơ sở thể chế về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước được ban hành, đã điều chỉnh một bước quan trọng về chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp để khắc phục những chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Đã phân định rõ thẩm quyền những việc phải trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; những việc do bộ, ngành tự quyết định và chịu trách nhiệm. Một số công việc trước đây do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết, nay đã được chuyển cho các bộ, ngành Trung ương và phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện(1). Cùng với việc đẩy mạnh phân cấp, Chính phủ đã tập trung giải quyết các vấn đề có tính chiến lược, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các nhiệm vụ đã phân cấp cho địa phương. Tổ công tác do Thủ tướng Chính phủ thành lập, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về thực hiện nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc các bộ, cơ quan, địa phương thực hiện các nhiệm vụ, kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng giao; kiểm tra các bộ, cơ quan, địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ, kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng đã đạt được một số kết quả tích cực.

Ba là, giai đoạn từ năm 2007 - 2017, đã có nhiều cải cách mạnh mẽ về tổ chức bộ máy, giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian, hình thành bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, khắc phục sự chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ quản lý nhà nước. Từ nhiệm kỳ Chính phủ khóa XII đến nay duy trì cơ cấu Chính phủ ổn định với 30 bộ, cơ quan, gồm: 22 bộ, cơ quan ngang bộ; 08 cơ quan thuộc Chính phủ. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức các bộ, ngành Trung ương đã được phân định rõ ràng, cơ bản khắc phục được những chồng chéo, trùng lắp, từng bước thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện. Các bộ, cơ quan ngang bộ chủ yếu tập trung xây dựng thể chế, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực; hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm thuộc phạm vi quản lý theo phân công của Chính phủ và quy định của pháp luật; từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực với chức năng quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Để bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động sự nghiệp của các cơ quan thuộc Chính phủ, Chính phủ đã phân công các thành viên Chính phủ trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực về các hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ.

Bốn là, đã phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý của các bộ, ngành và xác định rõ tiêu chí thành lập các tổ chức bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ như cục, vụ, tổng cục; cơ cấu tổ chức bên trong của bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý và tính chất hoạt động. Cụ thể là:

- Quy định cụ thể các tiêu chí để thành lập vụ, cục, tổng cục thuộc bộ; tiêu chí thành lập các vụ, cục thuộc tổng cục. Hạn chế việc thành lập mới các tổng cục, cục thuộc bộ.

- Quy định cục thuộc bộ chỉ có một loại với tiêu chí thành lập được áp dụng thống nhất đã thể hiện sự đổi mới trong cách thức tiếp cận và thiết kế tổ chức bộ máy thuộc bộ.

- Quản lý chặt chẽ số lượng phòng trong vụ (theo hướng cơ bản không để cấp phòng trong vụ, chỉ thành lập phòng trong vụ có nhiều mảng công tác hoặc khối lượng công việc lớn theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP), phòng và chi cục thuộc cục thuộc bộ (quy định cụ thể trong Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng bộ), chi cục thuộc cục của tổng cục thuộc bộ (quy định cụ thể trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng tổng cục thuộc bộ), hạn chế được tổ chức trung gian không cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức.

- Đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu các tổng cục và tổ chức tương đương, cục, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ được quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo, quản lý của các đơn vị thuộc cấp mình quản lý, bảo đảm nguyên tắc cấp nào quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức thì cấp đó quyết định bổ nhiệm, cách chức để gắn thẩm quyền với trách nhiệm.

Năm là, các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ công tác quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc bộ, như: nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo; tạp chí; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thông tin hoặc tin học được quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ; các đơn vị sự nghiệp công lập khác hiện có thuộc bộ được rà soát, sắp xếp phù hợp với quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực và định hướng đổi mới cơ chế tự chủ và đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công thuộc ngành, lĩnh vực. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP). Đây là Nghị định quan trọng, tạo khung pháp lý để các bộ quản lý về lĩnh vực sự nghiệp xây dựng, trình Chính phủ ban hành cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với tính chất, đặc điểm từng ngành, lĩnh vực. Đồng thời, Chính phủ khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học…

Sáu là, số lượng các tổ chức quản lý chuyên ngành có xu hướng chuyển đổi từ các tổ chức chỉ thực hiện chức năng tham mưu (vụ) sang loại hình tổ chức vừa thực hiện chức năng tham mưu, vừa tổ chức thực thi (cục) theo phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển thực tế đòi hỏi và nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước các chuyên ngành, lĩnh vực.

Bảy là, các cơ quan chuyên môn ở địa phương được sắp xếp, tổ chức lại phù hợp với sự sắp xếp, điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức Chính phủ các khoá, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt và theo xu hướng thu gọn đầu mối, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; phân định rõ hơn chức năng và mô hình tổ chức của chính quyền đô thị với chính quyền ở nông thôn để đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 được ban hành đã quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương: tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; hiện đại, minh bạch, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; quy định về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, ủy quyền cho chính quyền địa phương. Theo đó, tính thống nhất và thông suốt của hệ thống hành chính nhà nước được bảo đảm trên cơ sở xác định rõ vị trí, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong hệ thống cơ quan nhà nước. Về quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp và về kiện toàn thống nhất hệ thống cơ quan chuyên môn của các cấp chính quyền đạt được nhiều kết quả khả quan.

Tám là, chủ trương tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị đã được thể hiện trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; chính quyền địa phương được quy định rõ, cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn, theo hướng chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, giảm dần xuống cấp huyện đến cấp xã để tránh tình trạng dồn việc về cấp cơ sở; nhiệm vụ quyền hạn của chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn tập trung thực hiện quản lý theo lãnh thổ; ở địa bàn đô thị chú trọng thực hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực. Trong giai đoạn này, đã thực hiện việc thí điểm việc không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Căn cứ kết luận của Trung ương, Chính phủ đã trình và Quốc hội thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, theo đó, tất cả các đơn vị hành chính quy định tại khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 đều tổ chức cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đồng thời chấm dứt thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường kể từ ngày 01/01/2016.

3. Những tồn tại, hạn chế

Tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động của nền hành chính, nhưng tốc độ cải cách còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn và mục tiêu đề ra. Bộ máy hành chính cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả là một trong những điểm nghẽn của nền hành chính đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thời gian qua, cụ thể như sau:

Một là, việc đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính nhà nước còn chậm, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa thật sự thống nhất, thông suốt. Tình trạng mệnh lệnh hành chính chưa được chấp hành một cách nghiêm túc, kỷ luật, kỷ cương hành chính lỏng lẻo và sự tuỳ tiện, thiếu quy định rõ ràng về quy trình giải quyết công việc ở các cơ quan hành chính vẫn còn.

Hai là, tuy đã được tích cực sắp xếp, kiện toàn qua các nhiệm kỳ Chính phủ nhưng đến nay tổ chức bộ máy bên trong của một số bộ, cơ quan ngang bộ vẫn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian; chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan hành chính nhà nước tuy đã cơ bản khắc phục được sự chồng chéo, nhưng trên một số lĩnh vực vẫn còn giao thoa, đan xen hoặc phân công chưa thực sự phù hợp hoặc chưa đủ rõ, dẫn đến khó xác định trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra.

Ba là, công tác phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước có mặt còn hạn chế. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn phức tạp, rườm rà, chậm được khắc phục.

Bốn là, việc quy định thành lập tổ chức trong các luật chuyên ngành hoặc trong nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật cũng như trong các đề án, dự án, chương trình,... làm phát sinh tăng đầu mối tổ chức, gây trở ngại cho việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo yêu cầu cải cách hành chính.

Năm là, việc chuyển giao một số nhiệm vụ từ cơ quan hành chính nhà nước cho các tổ chức xã hội thực hiện còn hạn chế. Tổ chức bộ máy và biên chế công chức tại các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa giảm, tinh giản biên chế còn gặp nhiều khó khăn. Chưa thực hiện việc chuyển một số nhiệm vụ thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có đủ điều kiện dân sự hóa cho các bộ quản lý như Nghị quyết Trung ương đã đề ra. Phân cấp quản lý nhà nước chưa được thực hiện triệt để, nghiêm túc.

Sáu là, việc lập và quản lý theo quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực chưa được coi trọng, dẫn đến làm tăng cả về tổ chức và biên chế (số lượng người làm việc) trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Một số chính sách là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập (như học phí, viện phí…), cũng như nhiều định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành còn thiếu (định mức giờ giảng, định mức biên chế theo lĩnh vực, ngành, nghề...), chưa được ban hành hoặc sửa đổi kịp thời; các định mức chi và cơ chế quản lý chi chậm đổi mới, chưa gắn với kết quả hoạt động nên hạn chế tính tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp. Đây là nguyên nhân làm chậm quá trình đẩy mạnh xã hội hóa đối với một số lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công. Việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy định tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng hoạt động sự nghiệp của đơn vị khi được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn nhiều lúng túng, chưa có hệ thống đánh giá kết quả hoạt động thích hợp với đặc thù của từng ngành, lĩnh vực.

4. Phương hướng, nhiệm vụ cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn tới

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được và những yêu cầu chủ quan, khách quan của bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, để xây dựng một nền hành chính năng động, trách nhiệm, hiện đại, xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần tiếp tục triển khai thực hiện những nhiệm vụ sau:

Một là, tăng cường vai trò, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp, của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ quan, đơn vị là điều kiện quan trọng đảm bảo sự thành công của cải cách hành chính nói chung, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nói riêng. Người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp cần tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính, chịu trách nhiệm chính về kết quả cải cách hành chính. Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và cơ quan hành chính địa phương các cấp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.

Hai là, việc thành lập các tổ chức hành chính trong hệ thống các cơ quan quan hành chính cần được thực hiện trên cơ sở đáp ứng các tiêu chí, điều kiện cụ thể theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Nội vụ (cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về lĩnh vực tổ chức bộ máy).Thực hiện nguyên tắc phân công quản lý nhà nước “một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính”. Theo đó, lĩnh vực tổ chức bộ máy được Chính phủ phân công cho Bộ Nội vụ quản lý, thì Bộ Nội vụ thực hiện nhiệm vụ chủ trì và chịu trách nhiệm chính về quản lý tổ chức bộ máy, tránh tình trạng thiếu tính thống nhất về mô hình tổ chức trong cùng hệ thống.

Ba là, Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu đối với các quy định về tổ chức bộ máy và biên chế cần được quy định thống nhất trong các văn bản pháp luật thuộc chuyên ngành tổ chức nhà nước. Thực tiễn cho thấy, việc hình thành tổ chức hành chính thường gắn với phát sinh các quy trình, thủ tục hành chính. Vì vậy, để thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020, ngoài việc rà soát, loại bỏ các thủ tục không cần thiết, đơn giản hóa và hiện đại hóa thủ tục hành chính, cần tăng cường quản lý chặt chẽ đối với tổ chức hành chính, đặc biệt là các tổ chức hành chính được thiết kế quản lý theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương (tổng cục và tổ chức tương đương).

Bốn là, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, theo đó, điều chỉnh chức năng của Chính phủ cho phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền địa phương. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, tổ chức để bảo đảm không chồng chéo, trùng lặp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, giữa Trung ương và địa phương. Sáp nhập những cơ quan, tổ chức có cùng hoặc tương đồng về chức năng, nhiệm vụ. Không nhất thiết Trung ương có tổ chức, cơ quan nào thì địa phương có tổ chức, cơ quan đó. Nghiên cứu từng bước khắc phục nhiều bộ máy trong hệ thống chính trị và các cơ quan có chức năng tương đồng. Bảo đảm nguyên tắc một việc, trên một địa bàn chỉ giao cho một cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính, không bỏ trống nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Năm là, quy định cụ thể nguyên tắc "ba định" trong thành lập tổ chức là: xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức mới dự kiến được thành lập có trùng lắp với tổ chức hiện có hay không, trên cơ sở đó xác định mô hình tổ chức được thành lập và quyết định số lượng biên chế của tổ chức mới đó. Đồng thời, quy định cụ thể nguyên tắc thành lập tổ chức, khung cơ cấu, số lượng cơ quan, tổ chức trực thuộc một ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương; nguyên tắc thành lập tổ chức, khung cơ cấu, số lượng cơ quan, tổ chức trực thuộc cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (kể cả cơ cấu các đơn vị bên trong các cơ quan, tổ chức này). Các bộ, cơ quan ngang bộ khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan mình, trong đó, kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy tinh gọn, giảm cấp trung gian, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, đáp ứng đúng các tiêu chí về thành lập vụ, cục, tổng cục thuộc bộ, cơ quan ngang bộ.

Sáu là, phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương để giải quyết các công việc về an ninh trật tự, phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương. Nghiên cứu hợp nhất các cơ quan chuyên môn có phạm vi, đối tượng quản lý về ngành, lĩnh vực có mối quan hệ liên thông với nhau để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước tại địa phương, bảo đảm phù hợp với quy định của Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, đáp ứng yêu cầu quản lý của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Chính phủ thực hiện tốt vai trò kiến tạo phát triển, lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, tập trung thực hiện ba vấn đề cơ bản: hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia; đưa ra các tiêu chuẩn về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước; giám sát kiểm tra chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân trong việc thực hiện các tiêu chuẩn do Chính phủ và bộ quản lý ngành, lĩnh vực trong việc thực hiện các tiêu chuẩn.

Bảy là, kiên quyết thực hiện việc chuyển giao mạnh các nhiệm vụ, công việc không thuộc chức năng của hệ thống hành chính cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, tổ chức doanh nghiệp, tư nhân đảm nhiệm, theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá. Tiếp tục cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Ban hành nghị định quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đẩy mạnh xã hội hóa; danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý. Căn cứ quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, xây dựng đề án sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công được giao quản lý để quyết định theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

TS. Nguyễn Trọng Thừa
Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Trưởng ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ

--------------------

Ghi chú:

([1]) Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Hội nghị Trung ương lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.

2. Nghị quyết số 17-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

3. Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020.

4. Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020.

5. Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020.

6. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

7. Quyết định số 2218/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW.

8. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

9. Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.

10. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

11. Báo cáo tổng kết đánh giá các nghị quyết của Đảng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

12. Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30/7/2007 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; sơ kết Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

13. Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

tcnn.vn

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất