Nhà báo Hồ Chí Minh

Những ngày đầu, Bác được nhà báo Lung-gê, cháu ngoại của C.Mác, làm việc ở báo Sinh hoạt công nhân - nhiệt tình chỉ dẫn nghiệp vụ báo chí. Từ những mẩu tin, bài, tư liệu tản mạn có chủ đề nhỏ, Bác viết thành các bài có chủ đề lớn, tập trung. Những bài viết của Bác đăng trên báo cánh tả hầu như không có nhuận bút, nhưng lại mang ý nghĩa tinh thần rất lớn. Ban ngày Bác đi làm, tối tham gia mít tinh, biểu tình, vận động cách mạng, đêm lại ngồi cặm cụi viết báo.

Ngày 28-6-1919, hội nghị các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất khai mạc tại Véc-xai (Pháp). Thay mặt những Việt kiều, Bác viết và gửi đến hội nghị Bản yêu sách 8 điểm đòi quyền lợi cho nhân dân Việt Nam. Đây cũng là bài viết nổi tiếng đầu tiên của Bác được cơ quan ngôn luận Đảng Xã hội Pháp đăng dưới nhan đề Quyền các dân tộc. Trong bài này, Bác đã mạnh dạn đưa ra 8 yêu sách thiết thực, đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền độc lập tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, trong đó có cả quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí... Năm 1921, Người (với tên Nguyễn Ái Quốc) đã cùng một số chính khách thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa và năm 1922 lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ) là cơ quan ngôn luận của Hội. Le Paria thể hiện tinh thần đoàn kết và giải phóng con người, số đầu xuất bản ngày 1-4-1922. Nguyễn Ái Quốc trở thành nòng cốt của tờ báo: vừa là phóng viên, nhiếp ảnh vừa là biên tập viên chính kiêm việc tổ chức, quản lý, phát hành, Bác đã viết tới 38 bài cho báo này.

Tháng 11-1924, Bác được Quốc tế III phân công về Quảng Châu (Trung Quốc), tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng, thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, ra báo Thanh Niên là cơ quan ngôn luận. Báo Thanh Niên số 1 ra ngày 21-6-1925, đến tháng 4-1927 được 88 số bằng tiếng Việt, trụ sở tại nhà 13A, đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc, in trên giấy sáp. Bác trực tiếp chỉ đạo, biên tập, trình bày và viết nhiều bài chính luận sắc bén. Báo được chuyển về nước bằng đường thủy, tới các tổ chức của Hội, các chi bộ, các cơ sở Việt kiều ở Pháp, Thái Lan, Nga. Tháng 12-1926, Bác lập ra báo Công nông cho giai cấp công nhân và nông dân nước ta. Tháng 1-1927, báo Lính kách mệnh (tiền thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay) dành cho đội ngũ chiến sĩ cách mạng cũng được Bác sáng lập. Các báo này đều xuất bản chủ yếu bằng tiếng Việt, ngoài ra còn có cả một số tin, bài bằng tiếng Trung, Pháp, Anh... Hình thức của các báo mới mẻ, gần gũi, nội dung phong phú, luôn bám sát các chủ trương và mục tiêu của cách mạng.

Từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930, tại Hồng Kông, Bác trực tiếp tổ chức, chỉ đạo Hội nghị thống nhất các đảng và phong trào cộng sản ở Việt Nam để thành lập một đảng mới với tên Đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định đình bản những tờ báo riêng rẽ của các tổ chức đảng trước đây, còn lại cho xuất bản báo Tranh đấu và tạp chí Đỏ, những số đầu phát hành vào tháng 8-1930. Trong thời kỳ này, với nhiều bút danh khác nhau, Bác còn cộng tác với các báo tiến bộ trong nước, đồng thời viết hàng loạt bài cho những tờ báo cách mạng nổi tiếng thế giới: L' Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, La Vie d'Ouvriers (Đời sống thợ thuyền) của Liên đoàn Lao động Pháp, Điện tín Quốc tế của Quốc tế III, Pravda (Sự thật) của Đảng Cộng sản Liên Xô... Tháng 1-1941 Bác về nước, chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 thành lập Mặt trận Việt Minh, cho ra tờ báo Việt Nam độc lập, năm 1941 và báo Cứu Quốc, năm 1942. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II tháng 2-1951, Bác chỉ đạo thành lập báo Nhân dân - cơ quan ngôn luận của Đảng. Ngoài sáng lập, tổ chức hoạt động, Bác còn còn là cộng tác viên nhiệt tình của nhiều tờ báo lớn. Chỉ riêng với báo Nhân dân, từ số 1 ngày 11-3-1951 đến số 5526 ngày 1-6-1969, Bác đã gửi và được đăng 1.206 bài viết với 23 bút danh khác nhau.

Bác đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp phát triển báo chí cách mạng Việt Nam và việc đào tạo đội ngũ cán bộ làm báo. Bác luôn khẳng định giá trị to lớn của báo chí: “Tờ báo Đảng như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công tác. Hàng ngày nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất công tác của chúng ta”(1). Bằng chính kiến thức và kinh nghiệm của mình, Bác tận tâm chỉ dẫn nghiệp vụ cho các nhà báo như một đồng nghiệp, một người bạn, người anh, người thầy. Tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam tháng 9-1962, Bác căn dặn: “Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông, dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc? Khi viết xong thì nhờ anh em xem và sửa giùm”(2). Bác cũng thẳng thắn phê bình những khuyết điểm của báo chí nước nhà bấy giờ: “Bài báo thường quá dài, “dây cà ra dây muống”, không phù hợp với trình độ và thời gian của quần chúng. Thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng các thành tích, mà ít hoặc không nói đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm của ta. Đưa tin tức hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng. Thiếu cân đối, tin nên dài thì viết ngắn, nên ngắn thì lại viết dài; nên để sau thì để trước, nên trước lại để sau. Lộ bí mật. Có khi quá lố bịch. Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều và nhiều khi dùng không đúng”(3). Bác đánh giá và khuyên dạy: “Báo chí của ta đã có một địa vị quan trọng trong dư luận thế giới... Cho nên làm báo phải hết sức cẩn thận về hình thức, về nội dung, về cách viết”(4).

Suốt hơn nửa thế kỷ gắn bó với báo chí, Bác để lại một sự nghiệp đồ sộ. Trên 2.000 bài viết với hàng trăm bút danh khác nhau của Bác đã được đăng ở nhiều báo trong và ngoài nước bằng tiếng Việt, Pháp, Hán, Nga, Anh... Với chủ đề đa dạng, sinh động, văn phong vừa độc đáo vừa gần gũi, dễ hiểu, nhiều bài báo của Bác đã chiếm được sự mến mộ của bạn đọc. Bác là người khai sinh, phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam, đưa ra các tư tưởng, phương pháp báo chí mới mẻ, tiến bộ phù hợp với phong trào báo chí cách mạng và báo chí hiện đại trên thế giới. Bác không những là một lãnh tụ chính trị kiệt xuất, một danh nhân văn hóa thế giới mà còn thực sự là một nhà báo vĩ đại của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

---------------------------------

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Hà Nội, 2002, tập 7, tr.298.

(2) (3) (4) Sách đã dẫn, tập 10, tr.615, 614-615, 615.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất