Đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý của Bình Thuận phần lớn trưởng thành trong chiến
tranh, đã được thực tiễn rèn luyện, thử thách. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ mới, trình độ, năng lực và phẩm chất của một bộ phận chưa
ngang tầm; còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, nhất là thiếu những cán bộ chuyên môn giỏi, hiểu biết sâu, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Một
bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, tinh thần trách nhiệm chưa cao; một
số chưa thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, giảm sút ý
chí chiến đấu, làm giảm lòng tin trong nhân dân.
Khắc phục tình trạng trên, ngay sau Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2005-2010, Tỉnh uỷ Bình Thuận đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 28-2-2007 “Về xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2007-2010, định hướng đến năm 2015”, mục tiêu chung là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín và năng lực; đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH”.
Kết quả bước đầu.
Sau gần 5 năm thực hiện, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bình Thuận đã có sự chuyển biến cả về số lượng và chất lượng, về cơ cấu, đảm bảo tiêu chuẩn theo yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ chủ chốt các cấp được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng các mặt; trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, khả năng quản lý được nâng lên; ý thức tự chủ, năng động, sáng tạo trong công tác được phát huy. Cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý có trình độ đại học trở lên tăng từ 75,5% (năm 1997) lên 99,6%; cán bộ có trình độ lý luận chính trị cử nhân và cao cấp chiếm 91%; hầu hết được bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, quốc phòng - an ninh. Cán bộ từ trưởng, phó phòng chuyên môn, giám đốc, phó giám đốc và tương đương, các đơn vị trực thuộc sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, trình độ cao đẳng, đại học: 75,5% (1997: 18%); trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên: 21,7% ( 1997: 11%); số còn lại hầu hết đã được đào tạo trung cấp lý luận chính trị. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, nữ chiếm 15,1 %, trẻ (dưới 40 tuổi) chiếm 5%.
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã thể chế hoá các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, các quy định, quy chế về công tác cán bộ được ban hành khá đầy đủ, kịp thời. Trong quá trình thực hiện, thường xuyên rà soát và bổ sung, hoàn chỉnh; các khâu của công tác cán bộ được thực hiện chặt chẽ và nền nếp hơn; một số khâu có chuyển biến tích cực như quy hoạch, đánh giá, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tỉnh đã ban hành Đề án 100 (đào tạo nguồn nhân lực có trình độ sau đại học ở nước ngoài từ năm 2007-2013 bằng nguồn ngân sách của tỉnh). Đến nay, tỉnh đã cử 313 cán bộ, công chức đi đào tạo sau đại học ở nước ngoài và liên kết trong nước theo Đề án 100 và Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung ương. UBND tỉnh đã có Quyết định số 21/2007/QĐ-UBND, ngày 9-5-2007 hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để thực hiện các nghị quyết của Tỉnh ủy.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Bình Thuận trong giai đoạn mới, mục tiêu cụ thể của tỉnh là: Chuẩn bị tốt nguồn cán bộ để bổ sung, đổi mới 35 - 40% cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tăng hợp lý tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, dân tộc thiểu số trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Phấn đấu đến năm 2015, số cán bộ này ít nhất phải tốt nghiệp một đại học chuyên môn, cao cấp lý luận chính trị và phải qua bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên chính trở lên; các đồng chí dưới 40 tuổi phải sử dụng thành thạo một ngoại ngữ. Riêng một số sở, ngành thường xuyên tiếp xúc với tổ chức và cá nhân nước ngoài thì giám đốc, phó giám đốc sở bắt buộc phải sử dụng thành thạo một ngoại ngữ thông dụng.
Từ thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh, thời gian tới, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau.
Một là. Tiếp tục nghiên cứu, quán triệt và nắm vững các quan điểm cơ bản của Đảng về công tác cán bộ, đặt biệt những quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ được nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII). Xây dựng đội ngũ cán bộ gắn với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố và hoàn thiện các tổ chức trong hệ thống chính trị. Làm tốt các khâu của công tác cán bộ và cụ thể hoá bằng các quy định, quy chế về công tác cán bộ để thực hiện thống nhất.
Hai là. Tiếp tục triển khai tốt Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Quán triệt mục đích, quan điểm, nguyên tắc, phương châm quy hoạch cán bộ. Thực hiện tốt quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý 3 cấp mà trọng tâm là quy hoạch cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ và người đứng đầu các địa phương, đơn vị. Gắn quy hoạch cán bộ với công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển để rèn luyện cán bộ. Định kỳ hằng năm tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung những nhân tố mới cho quy hoạch; đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện. Chỉ xem xét, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử các chức danh lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể đối với những cán bộ đã được quy hoạch.
Ba là. Cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ, lấy tiêu chuẩn là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ. Căn cứ vào yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới, cần phải soát xét, bổ sung vào tiêu chuẩn cán bộ những nội dung mới, nhất là tiêu chuẩn về kiến thức, năng lực thực tiễn thể hiện ở kết quả, hiệu quả công việc, tinh thần trách nhiệm; khả năng quy tụ, tập hợp đội ngũ cán bộ; đạo đức, lối sống; không tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Bốn là. Thực hiện tốt công tác đánh giá cán bộ, bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, trung thực. Phải có quan điểm đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khách quan, công tâm, dân chủ, chống mọi biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ, định kiến, hẹp hòi, cá nhân. Gắn công tác đánh giá cán bộ với đổi mới nội dung và phương pháp tiến hành tự phê bình và phê bình; lấy nhiệm vụ được giao của từng chức danh để làm nội dung đánh giá phẩm chất và năng lực cán bộ.
Năm là. Tiếp tục thực hiện tốt đào tạo cán bộ có trình độ sau đại học ở nước ngoài theo Đề án 100, Đề án 165. Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nêu cao ý thức tự giác học tập để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải theo quy hoạch. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn phải thiết thực, phù hợp với từng loại cán bộ. Chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ các kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tin học, ngoại ngữ, phương pháp lãnh đạo, quản lý…
Sáu là. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển chọn cán bộ. Thông qua hoạt động thực tiễn để tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, đánh giá, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ; quan tâm đúng mức cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số; chống tư tưởng định kiến, hẹp hòi, cục bộ, khép kín trong bố trí cán bộ. Bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo phải theo đúng các tiêu chuẩn quy định. Mạnh dạn đề bạt vượt cấp những cán bộ trẻ, có năng lực, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đã trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Kiên quyết thay thế và không bổ nhiệm lại những cán bộ hạn chế về năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, tham nhũng, để đơn vị xảy ra tham nhũng. Không đưa những người bị kỷ luật, không đảm đương được nhiệm vụ ở nơi này sang nhận nhiệm vụ tương đương hoặc cao hơn ở nơi khác. Đổi mới công tác giới thiệu, lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ. Tiếp tục thực hiện Hướng dẫn số 43-HD/BTCTU, ngày 27-5-2009 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về một số nội dung, quy trình lấy phiếu tín nhiệm phục vụ công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Bảy là. Nâng cao chất lượng bộ máy và cán bộ làm công tác tổ chức. Tập trung củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ. Trước mắt, tập trung kiện toàn ban tổ chức cấp ủy các cấp; đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ. Tăng cường giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ.
Nguyễn Phúc-Phó trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ