Tiếp tục công cuộc đổi mới toàn diện đất nước

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị.
Đại biểu Đỗ Hoài Nam (Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam) bày tỏ: Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trong đó trọng tâm là đổi mới hệ thống chính trị là một nội dung cơ bản cần được quan tâm giải quyết trong quá trình đổi mới đất nước toàn diện và đồng bộ với điều kiện phát triển mới. Yêu cầu đặt ra là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị để tạo điều kiện cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau cùng thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đổi mới kinh tế sẽ tạo điều kiện để kinh tế phát triển và đặt ra những yêu cầu đổi mới chính trị nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng; đổi mới kinh tế sẽ tạo cơ sở kinh tế cho sự ổn định chính trị và đổi mới hệ thống chính trị. Đổi mới hệ thống chính trị sẽ xác định định hướng chính trị, bảo đảm sự ổn định chính trị, tạo lập môi trường chính trị thuận lợi cho đổi mới kinh tế.

Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, từng bước phát triển nền kinh tế tri thức
Đại biểu Châu Văn Minh, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam khẳng định, để phát triển nền kinh tế tri thức cần phải có đội ngũ trí thức nhiều về số lượng và cao về chất lượng, đồng thời phải có cơ chế thích hợp để đội ngũ trí thức phát huy vai trò của mình, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Muốn vậy, một mặt cần khuyến khích, động viên và tạo điều kiện để đội ngũ trí thức phát huy truyền thống yêu nước, phụng sự hết mình cho đất nước và nhân dân, đem trí tuệ, tài năng, sức lực cùng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa đất nước vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mặt khác, chúng ta cũng cần giải quyết đồng bộ một số giải pháp sau đây:
1. Tập trung đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KHCN, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội; khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tăng cường sức cạnh tranh, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền; tăng cường hỗ trợ đổi mới và nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp; xây dựng đồng bộ các cơ chế, chính sách, tạo sự năng động và hiệu quả trong hoạt động KHCN của mọi tổ chức và cá nhân; tạo sự gắn kết giữa nghiên cứu, đào tạo với sản xuất-kinh doanh, đồng thời xây dựng cơ chế hiệu quả nhằm hỗ trợ các sản phẩm nghiên cứu và phát triển công nghệ trở thành sản xuất hàng hóa, đáp ứng được nhu cầu của các lĩnh vực kinh tế-xã hội; xây dựng và phát triển thị trường KHCN bình đẳng, lành mạnh, phục vụ sản xuất, kinh doanh. Mỗi một chính sách phát triển kinh tế-xã hội cần phải có các giải pháp KHCN phù hợp kèm theo.
2. Nhà nước tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và triển khai ứng dụng công nghệ mới hiện đại để đến năm 2020 đạt mức trung bình trên thế giới, trong đó phấn đấu khuyến khích đẩy nhanh tốc độ tăng đầu tư từ nguồn lực xã hội ngoài ngân sách.
3. Nâng cao chất lượng nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, chú trọng các nghiên cứu cơ bản có trọng điểm, tập trung đầu tư để đạt trình độ và chuẩn mực quốc tế, coi nghiên cứu cơ bản là nền tảng để phát triển năng lực nghiên cứu và phát triển KHCN của đất nước, là hạ tầng cơ sở của nền KHCN nước nhà; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, khai thác hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên; tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động KHCN.
4. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và cơ chế tài chính trong KHCN tạo động lực cho đội ngũ trí thức KHCN phát huy sáng tạo; Nhà nước tập trung xây dựng các quỹ phát triển, các chương trình KHCN lớn, xác định và đặt hàng thực hiện những nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia, tập trung lực lượng giải quyết các nhiệm vụ khoa học và công nghệ then chốt.
5. Phát triển và hiện đại hóa nền giáo dục ở tất cả các bậc học, nhằm mục tiêu lâu dài là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và xây dựng nhân cách con  người Việt Nam. Đầu tư đủ mạnh cho giáo dục đào tạo để cùng với KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu của đất nước.
6. Có chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh thích hợp đối với đội ngũ trí thức nói chung và chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài, hạn chế hiện tượng chảy máu chất xám.

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Đại biểu Phạm Bình Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao nêu một số kiến nghị:
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc phương châm chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong hội nhập quốc tế, trước hết là chủ động, tích cực trong nắm bắt thời cơ, nhận rõ thách thức; chủ động, tích cực trong lựa chọn mức độ và tốc độ tham gia, thậm chí khởi xướng các liên kết khu vực và quốc tế phù hợp với lợi ích của ta, trong tăng cường năng lực mọi mặt để nắm bắt, tạo dựng và tận dụng cơ hội và xử lý hiệu quả các thách thức từ quá trình hội nhập.
Sớm xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế với mục tiêu và lộ trình cụ thể cho từng giai đoạn, trước mắt là đến 2020 và đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng-an ninh, văn hóa-xã hội, để trên cơ sở đó các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội và giới doanh nghiệp có chiến lược hội nhập của mình.
Nhanh chóng nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia, điều kiện thiết yếu để bảo đảm cho hội nhập quốc tế thành công. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, trước hết là chăm lo công tác xây dựng đảng và củng cố sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm cả cộng đồng hơn 4 triệu đồng bào ta ở nước ngoài. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia cũng có nghĩa là nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng của nền kinh tế trước các biến động của tình hình quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng-an ninh, từng bước tham gia sâu hơn vào các hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh-quốc phòng, các cơ chế an ninh khu vực và quốc tế.
Thứ hai, thực hiện đúng phương châm “triển khai đồng bộ và toàn diện” các định hướng đối ngoại được Đại hội XI thông qua; tăng cường thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại. Nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp giữa công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, địa phương và hoạt động ngoại giao nhân dân, phối hợp giữa các ngành, các cấp, các kênh tham gia các hoạt động đối ngoại.
Trong quá trình đó, ngoại giao cần thực sự trở thành một nền ngoại giao toàn diện với 3 trụ cột là: ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và công tác người Việt Nam ở nước ngoài; đối ngoại quốc phòng và an ninh cần tiếp tục được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
Thứ ba, song song với việc thực hiện các định hướng và phương châm đối ngoại mới, cần tiếp tục triển khai hiệu quả các định hướng lớn của đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, đặc biệt là định hướng “đưa các quan hệ đối ngoại đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững”…

Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, phát huy vai trò xung kích của thanh niên.
Đại biểu Võ Văn Thưởng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Mục tiêu “Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” mà dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó có thanh niên với tư cách là “lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đây sẽ là cơ hội to lớn nhưng cũng là thách thức đối với thanh niên. Để thanh niên thực hiện tốt vai trò xung kích trong thực hiện nhiệm vụ ấy, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và tuổi trẻ cả nước mong muốn và trân trọng đề nghị Đảng lãnh đạo và tạo điều kiện để Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện tốt những giải pháp sau:
Một là, đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống cho phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng thanh niên. Tiếp tục thực hiện thật tốt Cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” và chương trình “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; phát huy tính tự giác và khả năng sáng tạo của thanh niên trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống; hướng dẫn cho thanh niên tự nghiên cứu, tự học tập để có năng lực nhận biết và chủ động đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch; xây dựng và nhân rộng được nhiều cá nhân, tập thể thanh niên tiên tiến, là những người có đạo đức để làm gương, có trí tuệ để nhận biết, có ý chí để vươn lên, có bản lĩnh để hội nhập, có quyết tâm để hành động; tổ chức cho các điển hình gặp gỡ, giao lưu, cùng trao đổi với các thanh niên khác, để truyền đi cảm hứng phấn đấu không ngừng, luôn vươn lên khẳng định mình, không ngừng sáng tạo cùng tạo dựng tương lai, thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng XHCN.
Hai là, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh sẽ tổ chức có hiệu quả phong trào “Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”, góp phần hỗ trợ thanh niên phát triển trong học tập, nghiên cứu khoa học, việc làm, vui chơi giải trí, chuẩn bị những kỹ năng xã hội cần thiết; tổ chức tốt các phong trào thi đua cổ vũ, động viên, hỗ trợ thanh niên nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp; năng lực hội nhập; năng lực sáng tạo, tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ; góp phần hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nỗ lực vun trồng để hình thành những cán bộ quản lý trẻ giỏi, nhà khoa học trẻ giỏi, doanh nhân trẻ giỏi, người công nhân trẻ giỏi, nông dân trẻ giỏi, sỹ quan trẻ giỏi…., sẽ đóng vai trò đầu tàu để thúc đẩy đông đảo thanh niên hành động có hiệu quả, thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020.
Ba là, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” rộng khắp trong tuổi trẻ cả nước để phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích của thanh niên trong lao động sáng tạo, sản xuất-kinh doanh góp phần tích cực vào nâng cao chất lượng hàng hoá và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần tích cực trong cải cách hành chính, giữ vững quốc phòng-an ninh, trật tự an toàn xã hội, thực hiện an sinh xã hội; tổ chức thực hiện hiệu quả các công trình, phần việc thanh niên, trong đó có các đảo thanh niên, làng thanh niên lập nghiệp. Tích cực nghiên cứu tham mưu với Nhà nước ban hành các chính sách cụ thể để phát huy thanh niên tham gia phát triển kinh tế-xã hội, trước mắt là chính sách thu hút thanh niên tham gia xây dựng các đảo thanh niên, làng thanh niên lập nghiệp; chính sách khuyến khích trí thức trẻ tham gia công tác ở các vùng khó khăn; chính sách tài năng trẻ, chính sách cho thanh niên tình nguyện và thanh niên xung phong trong điều kiện mới.
Bốn là, quán triệt quan điểm “xây dựng Đoàn là góp phần xây dựng Đảng trước một bước”, không ngừng xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, thực sự là trường học XHCN của thanh niên. Đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đoàn và chất lượng đội ngũ cán bộ, thường xuyên giới thiệu cho Đảng những đoàn viên ưu tú có chất lượng, những cán bộ đoàn tâm huyết, có đạo đức và gắn bó với quần chúng, có trí tuệ và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân vào những khó khăn để bổ sung nguồn sinh lực mới cho Đảng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào Khmer.
Đại biểu Nguyễn Đức Kiên, Phó bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng khẳng định: Đại bộ phận đồng bào, sư sãi Khmer trong tỉnh đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH. Để xây dựng và thực hiện tốt chính sách dân tộc vùng đồng bào Khmer trong giai đoạn mới, từ thực tế địa phương, đại biểu Nguyễn Đức Kiên kiến nghị một số vấn đề:
1. Đảng và Nhà nước cần đặc biệt chú ý đến đặc điểm, phong tục, tập quán liên quan đến sinh hoạt, đời sống, sản xuất của đồng bào Khmer ở từng vùng, từng địa phương và phải từ yêu cầu thực tiễn đặt ra để có chính sách khả thi hơn. Thời gian qua, một số chính sách của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc chưa phù hợp với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, như: trong vùng không có hộ du canh, du cư nên gặp khó khăn trong triển khai chính sách định canh, định cư; một số quy định về hỗ trợ tiền mua đất ở, đất sản xuất cho hộ nghèo quá thấp so với giá thực tế ở địa phương... Riêng đối với những chính sách đã ban hành mà không phù hợp với thực tế thì cần kịp thời sửa đổi, bổ sung để địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả, sớm đem lại lợi ích cho người dân.
2. Hiện nay, Đảng và Nhà nước có rất nhiều chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc. Qua thời gian thực hiện, chúng ta cần xem xét đánh giá những chính sách nào phát huy hiệu quả thì tiếp tục kéo dài thời gian thực hiện, những chính sách nào không phù hợp thì chúng ta nên chấm dứt để tập trung nguồn vốn đầu tư cho các chương trình, dự án hiệu quả, tránh dàn trải. Trong đó, Chương trình 135 cần được tiếp tục thực hiện và phát huy trong suốt thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
3. Việc xây dựng chính sách dân tộc vùng đồng bào Khmer trong thời gian tới phải hướng vào sự phát triển toàn diện, song phải lấy phát triển nông nghiệp và thủy sản làm nền tảng, tăng cường chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản hàng hóa.
4. Đảng và Nhà nước cần có chính sách phát huy tinh thần tự lực, tự cường, nỗ lực, cố gắng vươn lên của đồng bào Khmer. Tất cả các hệ thống chính sách chỉ phát huy tối đa hiệu quả khi và chỉ khi đồng bào biết phát huy tốt tiềm năng, lợi thế của mình, khắc phục những hạn chế, yếu kém của bản thân. Để làm được điều này, trước hết chúng ta phải sớm tập trung xây dựng Đề án đầu tư phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí vùng đồng bào dân tộc; đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đồng bào giảm bớt các phong tục, tập quán lạc hậu, lãng phí thời gian, tiền bạc.
5. Bên cạnh các chính sách do Nhà nước đầu tư, cũng cần có chính sách huy động các nguồn lực của xã hội, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh trong vùng đồng bào dân tộc, thu hút lao động là người dân tộc nhằm giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, góp phần ổn định đời sống cho đồng bào.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất