Dự thảo Cương lĩnh bám sát thực tiễn đất nước, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Bí thư Thành Ðoàn, Chủ tịch Hội Sinh viên TP Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam Ngọ Duy Hiểu đề nghị Dự thảo Cương lĩnh nên đánh số thứ tự các mục theo truyền thống, không nên như cách mà Dự thảo thể hiện. Có thể không chia các phần từ I đến IV nữa mà đánh số thứ tự từ 1 đến 12, vì qua từng phần nhỏ ta đã có thể khái quát đối với nội dung lớn. Hoặc vẫn để các phần từ I đến IV nhưng trong từng phần đánh mục nhỏ từ 1 trở đi.
Về các phương hướng cơ bản thực hiện mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong phương án 1, cần bổ sung nhân tố khoa học - công nghệ, với tư cách là một trong những nhân tố quyết định thành công của CNH, HÐH. Phương hướng này cần được viết lại “đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước trên cơ sở phát triển mạnh khoa học - công nghệ gắn với phát triển kinh tế tri thức”.
Tại Phương hướng 8, cần bổ sung và nhấn mạnh yếu tố nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, coi đây là khâu đột phá. Dự thảo cương lĩnh cần nói rõ, sâu hơn về tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, mục tiêu của giáo dục và đào tạo, về mối quan hệ giữa giáo dục và đào tạo với khoa học - công nghệ. Không có quốc gia nào có nền khoa học - công nghệ hiện đại lại không dựa trên một nền giáo dục và đào tạo tiên tiến. Cần khẳng định: Ưu tiên đầu tư cho giáo dục và đào tạo, không nên khẳng định chung chung như trong Dự thảo: đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.
Tại Mục 11, cần sửa “Ðảng... chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể” thành “Ðảng... nghiêm túc lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể”. Ðảng giữ vai trò lãnh đạo, Ðảng đồng thời là thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Ðảng chịu sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cũng như của nhân dân. Từ nghiêm túc phản ánh đúng bản chất của vấn đề, thể hiện sự khiêm tốn, cầu thị của Ðảng ta.
Phó Bí thư Ðoàn Thanh niên Ðại học quốc gia Hà Nội, Bí thư Ðoàn Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Trịnh Minh Thái đề nghị, nên chuyển bài học thứ hai thành bài học thứ nhất. Bởi như dự thảo Cương lĩnh đã nêu rõ, chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi của lịch sử. Nhà nước ta từ ngày thành lập đến nay cũng luôn khẳng định và giữ vững bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong nội dung bài học thứ năm, nên bổ sung: Mọi đường lối, chủ trương của Ðảng phải xuất phát từ thực tế, tuân theo quy luật khách quan, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân và phát huy được sức mạnh to lớn trong nhân dân.
Cùng quan tâm về Dự thảo Cương lĩnh, Thạc sĩ Huỳnh Bá Lộc, Khoa Lịch sử, Trường đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn, Ðại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh nêu rõ, Dự thảo đã phản ánh một cách đầy đủ những diễn biến trong việc xây dựng và phát triển đất nước 20 năm qua, nhận định đúng những mặt mạnh, mặt yếu; nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế. Thấy được khuyết điểm, hạn chế, Ðảng sẽ có những định hướng và biện pháp hiệu quả nhằm chỉnh đốn, đổi mới để tiếp tục lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng thiêng liêng của dân tộc. Cương lĩnh nên đề cập nhiều hơn đến vai trò của đội ngũ trí thức, doanh nhân trong sự nghiệp cách mạng. Vai trò của đội ngũ này cần được trình bày rõ hơn, cụ thể hơn bởi sự lớn mạnh của đội ngũ trí thức sẽ góp phần quan trọng trong việc đẩy lùi đói nghèo lạc hậu ở nước ta, nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Ðảng nên xác định cụ thể thêm: Xây dựng môi trường, tạo điều kiện phát huy cao nhất tiềm lực của đội ngũ trí thức, doanh nhân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cương lĩnh cần đưa thêm nạn “tham nhũng” trở thành một trong những nguy cơ, và cần nói cụ thể về tình trạng thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, việc xác định đúng bối cảnh quốc tế cũng là cơ sở cho hành động đúng, do đó, Cương lĩnh nên bổ sung ý: toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ với những thời cơ và thách thức xen lẫn, khi nhận định về bối cảnh quốc tế...
Cùng với việc khẳng định, Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam, Phó Bí thư Ðoàn Thanh niên, Chủ tịch Hội Sinh viên Ðại học Ðà Nẵng Nguyễn Ðức Tiến đề nghị bổ sung cụm từ “và bảo vệ Tổ quốc” vào tiêu đề Cương lĩnh, cụ thể là “Cương lĩnh xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)”. Ðồng thời, cần giao trách nhiệm cụ thể cho một cơ quan kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện Cương lĩnh của Ðảng Cộng sản Việt Nam sau mỗi nhiệm kỳ. Cần rút ra những bài học thông qua việc tổ chức và vận hành các tập đoàn kinh tế nhà nước trong giai đoạn vừa qua để bổ sung vào hệ thống lý luận và quan điểm điều hành của Nhà nước.
Các vấn đề lớn cần được quan tâm như kinh nghiệm trong việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua và các nguy cơ biến tài sản nhà nước thành tài sản của một số người. Suy giảm và có nguy cơ làm biến mất vai trò sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Hiệu quả chi phối của kinh tế nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế độc quyền như điện, xăng dầu cũng cần được nghiên cứu sâu sắc.
Ðối với một số câu, chữ trong Phần I của Dự thảo Cương lĩnh, đại biểu Nguyễn Ðức Tiến đề nghị sửa đổi, bổ sung, như thay đổi cụm từ “nghèo nàn, lạc hậu” thành cụm từ “tình trạng kém phát triển”; thêm cụm từ “đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập ngày càng sâu rộng với các nước” vào sau cụm từ “quan hệ quốc tế rộng rãi” và thay cụm từ “có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới” thành cụm từ “vị thế nước ta ngày càng được nâng lên trong khu vực và trên thế giới” thành câu “đất nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đang đẩy mạnh CNH, HÐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập ngày càng sâu rộng với các nước, vị thế nước ta ngày càng được nâng lên trong khu vực và trên thế giới”. Trong bài học thứ nhất, đề nghị thêm từ “thành công” và từ “mục tiêu” vào như sau: Ðộc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc, để đủ ý hơn. Trong bài học thứ hai, đề nghị thay từ “máu thịt” thành “mật thiết” để phù hợp với Ðiều lệ Ðảng và thêm cụm từ “vận mệnh của Ðảng” vào thành câu: Sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của Ðảng, vận mệnh của đất nước.
Chăm lo phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực
Liên quan đến đội ngũ giáo viên cho các vùng sâu, vùng xa, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Toàn, Bí thư Ðoàn Thanh niên Trường đại học Sư phạm Hà Nội khẳng định, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, các vùng đặc biệt khó khăn là một nội dung được Ðảng ta rất quan tâm. Do vậy, cần nhận thức rõ trách nhiệm của các lực lượng xã hội đối với vấn đề này. Giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn là những trí thức trẻ, vừa là những người thầy, nhưng cũng có thể là những nhà quản lý. Ðây chính là hạt nhân góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Do đó cơ chế, chính sách đào tạo giáo viên cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa có tính chất rất quan trọng đối với sự phát triển giáo dục và đào tạo nói riêng và phát triển về kinh tế - xã hội nói chung ở những vùng khó khăn. Hiện nay, cơ chế, chính sách đào tạo giáo viên cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa đã được Ðảng và Nhà nước ta quan tâm, đầu tư và cũng đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn bộc lộ những điều cần phải tiếp tục có sự nhìn nhận, đánh giá và hoàn thiện hơn. Ðại biểu Nguyễn Hữu Toàn nêu rõ những khó khăn, hạn chế của giáo viên vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Trên cơ sở của thực trạng đó, đề nghị Ðảng, Nhà nước quan tâm đổi mới chính sách đào tạo giáo viên cho vùng dân tộc thiểu số nhằm bảo đảm đủ số lượng và chất lượng giáo viên cho vùng sâu, vùng xa theo hướng bền vững, hiệu quả, thiết thực nâng cao chất lượng giáo dục miền núi, vùng dân tộc.
Phó Bí thư Ðoàn trường, giảng viên Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội Nguyễn Văn Minh bày tỏ sự quan tâm đến việc gắn nghiên cứu khoa học và đào tạo với phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Ðại biểu Nguyễn Văn Minh nêu rõ: Ðảng và Nhà nước đã ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách ưu đãi cho nông nghiệp, nông thôn, thể hiện qua phân bổ đầu tư, bố trí nhân lực và sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của cấp ủy và chính quyền các cấp. Nhờ vậy, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã có sự phát triển toàn diện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã diễn ra mạnh mẽ làm cho diện tích sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, vấn đề ô nhiễm môi trường, đất đai bị hoang hóa đang là những vấn đề bức xúc trong sản xuất nông nghiệp. Các nhà khoa học cần vào cuộc góp phần nâng cao hiệu quả và giá trị của nông sản, cải thiện môi trường và an sinh xã hội. Ðể giải quyết vấn đề này, cần khuyến khích nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn, tăng đầu tư ngân sách cho khoa học - công nghệ, tìm hiểu nhu cầu thực tiễn để đặt hàng các sản phẩm khoa học - công nghệ từ các nhà khoa học, các cơ quan, các viện nghiên cứu.
Về cơ chế, chính sách thu hút trí thức trẻ đến công tác tại vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, Phó Bí thư Tỉnh đoàn Thái Nguyên Dương Văn Tiến khẳng định ý nghĩa thiết thực của việc tổ chức các đội trí thức trẻ tình nguyện về phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn, miền núi, đồng thời đề nghị Ðoàn Thanh niên, Hội Sinh viên tỉnh Thái Nguyên đề xuất với Ðảng và Chính phủ tiếp tục quan tâm, có cơ chế, chính sách đối với lực lượng trí thức trẻ nói chung và trí thức trẻ tình nguyện đến công tác tại các vùng sâu, vùng xa nói riêng. Khi các trí thức trẻ đáp ứng được các yêu cầu, cấp ủy và chính quyền địa phương các cấp có thể quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm các trí thức trẻ tham gia vị trí lãnh đạo hoặc có cơ chế luân chuyển công tác lên cấp huyện, tỉnh hoặc T.Ư.
Quan tâm thanh niên, công tác thanh niên và bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao
Dự thảo Báo cáo chính trị xác định: Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học - công nghệ hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Ðảng, của dân tộc...
Về chủ trương này, PGS, TS Nguyễn Thanh Hải, Phó Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam, giảng viên bộ môn Vật lý lý thuyết, Trường đại học Bách khoa Hà Nội, nêu rõ: Dự thảo văn kiện đã chỉ rõ cần đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, toàn diện và đặc biệt là coi trọng giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống. Cần nhấn mạnh thêm việc cần phải thiết lập các chế tài thực hiện, các tiêu chí về chuẩn đạo đức, lối sống phù hợp thuần phong mỹ tục, và với xu thế thời đại thì chủ trương đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ mới mang tính khả thi. Tổ chức Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh cần phải có một đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên, thiếu niên có bản lĩnh chính trị vững vàng, được đào tạo chính quy, bài bản, có trình độ học vấn, có kỹ năng công tác xã hội, nắm bắt được nhu cầu của thanh niên, thiếu niên, nhạy cảm với xu thế phát triển của thời đại.
Ðề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng trong sinh viên - thế hệ trẻ, tương lai của quốc gia, dân tộc - sống có lý tưởng, có niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, từ đó có nguyện vọng, có động lực, ý chí phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Ðảng Cộng sản Việt Nam, nữ sinh viên Ðại học Khoa học Tự nhiên (Ðại học quốc gia TP Hồ Chí Minh) Thúy Uyên nêu rõ: Việc phát triển Ðảng trong sinh viên là rất quan trọng, tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp cận, hiểu rõ và có nguyện vọng phấn đấu được trở thành đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam. Và quan trọng nhất trong công tác phát triển Ðảng trong sinh viên chính là xây dựng cái nhìn, suy nghĩ đúng đắn về tổ chức đảng trong bản thân sinh viên, để từ đó họ xây dựng được tình yêu tổ chức, lý tưởng và động cơ phấn đấu trong sáng. Ðại biểu Thúy Uyên nêu rõ một trong những khó khăn của công tác phát triển Đảng trong sinh viên chính là việc đảng viên được rèn luyện và phát triển từ sinh viên đến khi được kết nạp đã là những sinh viên năm cuối, hoặc sinh viên vừa tốt nghiệp, do đặc thù hoàn cảnh mà họ thường không thể thường xuyên xuất hiện trước phần lớn số sinh viên như trước nữa; hoặc có khi, sẽ chuyển sinh hoạt đảng đến nơi công tác mới, vì vậy làm giảm hiệu quả trong công tác xây dựng hình ảnh người đảng viên trong sinh viên. Nguyện vọng đứng vào hàng ngũ của Ðảng trong sinh viên là sẵn sàng cống hiến cho đất nước, cho nhân dân, cho những mục tiêu đúng đắn. Chính vì thế, tổ chức đảng cần phải luôn luôn tự phê bình và phê bình, xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh để sinh viên hăng hái phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Ðảng, góp sức xây dựng quê hương, đất nước.
Tham gia đóng góp ý kiến với Dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội XI của Ðảng, Bí thư Thành Ðoàn, Chủ tịch Hội Sinh viên TP Ðà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam Lương Nguyễn Minh Triết cho rằng, Dự thảo văn kiện Ðại hội đã chỉ ra đúng những điểm mấu chốt để nước ta phấn đấu trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhất là việc xác định “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”. Song nếu phát hiện người có năng khiếu mà không có chính sách đầu tư để người có năng khiếu phát triển thành tài năng thì năng khiếu sẽ tự tàn lụi. Vì vậy, cần tăng cường quản lý nhà nước về tài năng, tài năng trẻ, trước hết, cần coi trọng hệ thống hóa các văn bản luật về tài năng. Ðổi mới chính sách tài năng trẻ theo hướng không lạc hậu hơn so với các nước trong khu vực. Chính phủ có chiến lược phát triển và xây dựng hệ thống chính sách tài năng trẻ, tạo khung pháp lý để đưa công tác quản lý nhà nước ngày càng có nền nếp, hiệu quả. Tạo cơ chế, khuyến khích toàn xã hội tham gia vào việc phát hiện, bồi dưỡng, phát triển tài năng. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội, tạo ra quy trình phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ, phát huy tài năng. Thật sự coi trọng đội ngũ trí thức, trong đó có đội ngũ tài năng trẻ và nhân tài ở trong nước cũng như người Việt Nam ở nước ngoài. Có chế độ khuyến khích, thu hút nhân tài ở nước ngoài về cống hiến và phụng sự cho Tổ quốc.
Thiếu tá Nguyễn Quang Tùng, Học viện Chính trị (Bộ Quốc phòng) bày tỏ quan tâm về trách nhiệm của tuổi trẻ Việt Nam trong thực hiện quan điểm của Ðảng về lực lượng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và nêu rõ: Tuổi trẻ Việt Nam là lực lượng chủ yếu, nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong quân đội, phần lớn cán bộ, chiến sĩ còn trong độ tuổi thanh niên, thường ở đơn vị cơ sở, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, có vai trò rất quan trọng trong xây dựng thực hiện nhiệm vụ ở đơn vị. Quán triệt quan điểm của Ðảng về lực lượng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tổ chức đoàn các cấp cần tổ chức cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên học tập, quán triệt sâu sắc, nắm vững quan điểm của Ðảng; tuyên truyền giáo dục cho đoàn viên, thanh niên nhận thức sâu sắc những đặc điểm mới trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ðặc biệt tổ chức Ðoàn phải xung kích, đi đầu trong tuyên truyền giáo dục truyền thống, văn hóa, tinh thần dân tộc cho đoàn viên, thanh niên; tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đoàn viên, thanh niên.
Ðối với tổ chức đoàn ở các đơn vị quân đội: Cần làm tốt công tác giáo dục cho đoàn viên, thanh niên về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, hiểu rõ về âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, chức trách nhiệm vụ của từng cá nhân, thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu cao, kiên quyết không để Tổ quốc bị bất ngờ vì các tình huống.
Thạc sĩ Lê Văn Hà, Bí thư Ðoàn Trường đại học Hồng Ðức (Thanh Hóa), thay mặt sinh viên Trường đại học Hồng Ðức bày tỏ mong muốn Ðảng ta có chính sách cụ thể và thiết thực hơn nữa trong việc tạo điều kiện để tri thức trẻ được đi học tập ở nước ngoài, học những tiến bộ của các nước tiên tiến để có điều kiện hội nhập mạnh mẽ, nhanh chóng hơn với thế giới. Cần tăng cường giáo dục tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc, phát huy bản sắc và những giá trị truyền thống cho thanh niên một cách phong phú và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, một thực tế là không ít thanh niên nói chung, kể cả trí thức trẻ nói riêng, còn rất yếu và thiếu về kỹ năng sống, khả năng thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của sự vận động, phát triển xã hội, đòi hỏi của thực tiễn. Thậm chí, một số ít bộ phận thanh niên sống buông thả, đòi hỏi hưởng thụ. Vì vậy, Ðảng ta cần quan tâm, chỉ đạo, chăm sóc bồi dưỡng cho tuổi trẻ về vấn đề này, chuẩn bị cho họ cả về lý tưởng cách mạng, có tư tưởng chính trị, đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, đồng thời không thể thiếu được đó là phải có những giải pháp đẩy mạnh việc trang bị cho thanh niên kỹ năng sống, cách cư xử có văn hóa, biết chịu thương chịu khó, biết hợp tác, hỗ trợ nhau, chủ động hòa nhập xã hội và hội nhập quốc tế, sáng tạo trong thực tiễn cuộc sống.
Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước
Góp ý vào Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020, Tiến sĩ Bùi Trường Giang, Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, chọn cách tiếp cận phát triển bền vững là tư tưởng chủ đạo của Dự thảo Chiến lược; tuy nhiên có thể thêm các động từ vào các tiết để thể hiện tính hành động của Chiến lược: Về tăng trưởng kinh tế; Về phát triển văn hóa và quản lý xã hội và Về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ba khâu đột phá là phù hợp thực tiễn phát triển thời gian qua và yêu cầu của quá trình phát triển và hội nhập quốc tế sắp tới; đặc biệt cần nhấn mạnh ưu tiên đột phá về “thể chế phát triển”, vì sau 25 năm đổi mới, những hiệu chỉnh về mặt chính sách đã tới ngưỡng, để tạo nền tảng cho giai đoạn phát triển cất cánh sắp tới, công cuộc đổi mới cần chuyển trọng tâm từ đổi mới chính sách sang đổi mới thể chế, trong đó cần ưu tiên hình thành các thể chế quản trị quốc gia hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển mới và tương thích với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
12 định hướng phát triển đã xác định khá rõ những việc phải làm trong mười năm tới. Cần thể hiện ưu tiên cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước như là khâu đột phá, vì suy cho cùng không thể có được một hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đồng bộ và hiện đại khi chưa giải quyết được bài toán cải cách khu vực DNNN. Cần lập luận rõ “theo hướng hiện đại” ở đây là những ngành ít thâm dụng tài nguyên, ít thâm dụng đất đai, ít thâm dụng năng lượng và hướng tới các ngành ít thâm dụng lao động nhằm vừa giải quyết tốt bài toán chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, vừa tạo lập nền tảng cho một cơ cấu công nghiệp phù hợp nấc thang phát triển cao hơn. Phát triển các cụm, tuyến công nghiệp cần gắn với quy hoạch phân bố lãnh thổ công nghiệp toàn quốc, tránh tình trạng cát cứ và trùng lắp cơ cấu kinh tế giữa các địa phương, vùng, miền như hiện nay. Cần coi khu vực kinh tế nông nghiệp là lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh vượt trội của Việt Nam trong quá trình hội nhập, do đó cần đặt mục tiêu biến Việt Nam thành cường quốc nông nghiệp của thế giới, hoặc ít nhất là trong nền thương mại thế giới trong các thập niên tới. Từ đó đặt ra nhiệm vụ hình thành các thị trường nông sản kỳ hạn, các chuỗi giá trị nông sản kết nối toàn cầu như là một ưu tiên chiến lược trong thập kỷ tới để Việt Nam chủ động hơn trong việc “điều tiết” giá cả hàng nông sản thế giới (như gạo, cà-phê, một số mặt hàng thủy sản...).
Cần đặt trọng tâm giải quyết những điểm yếu trong quy hoạch và quản lý quy hoạch, về các điểm nghẽn hạ tầng cho tăng trưởng như “thiếu điện”, thiếu mạng lưới giao thông đa phương thức; thiếu đường bộ cao tốc, thiếu cảng biển nước sâu tầm cỡ khu vực và quốc tế; theo đó, cần ưu tiên xây dựng các tuyến giao thông cao tốc liên tỉnh, liên thành phố; phát triển một số cảng hàng không và cảng biển làm cửa ngõ quốc tế nhằm phục vụ cho sự phát triển các “cực tăng trưởng” mới ở cấp độ vùng lãnh thổ; cần nhanh chóng áp dụng các phương thức đầu tư, hợp tác công-tư trong các lĩnh vực này.
Ðối với xây dựng nông thôn mới, đây là một nội dung mới và quan trọng, là điểm nhấn của Dự thảo Chiến lược, nhiều ý tưởng mới đã được thể hiện trong phần này (cực tăng trưởng, khu kinh tế, đô thị ven biển làm đầu tàu phát triển, hình thành các hành lang, vành đai kinh tế, lồng ghép quy hoạch ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng...); cần mạnh dạn bổ sung “thí điểm xây dựng mô hình đặc khu kinh tế, khu kinh tế tự do tại một số địa điểm có lợi thế địa lý-kinh tế vượt trội so với trong khu vực và trên thế giới”; xây dựng nông thôn mới cần ưu tiên hình thành hệ thống các trung tâm tri thức nông thôn (thí dụ ưu tiên phát triển hệ thống phòng đọc và thư viện điện tử tại vùng nông thôn nhằm nâng cao dân trí và điều kiện tiếp cận thông tin của người dân).
Phát triển khoa học, công nghệ là động lực then chốt: Cần đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu công nghệ, bằng phát minh, sáng chế với mục tiêu là đưa nền sản xuất Việt Nam lên nấc thang công nghệ mới, cao hơn; để quá trình tăng trưởng kinh tế chuyển từ thâm dụng tài nguyên, lao động rẻ sang thâm dụng công nghệ, dựa vào năng suất; cần coi sự phát triển của nền khoa học-xã hội (KHXH) là tiền đề của đổi mới tư duy phát triển, là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển của mọi quốc gia - nghĩa là KHXH không chỉ là đầu vào cho chính sách phát triển mà còn là đầu ra, là mục tiêu của quá trình phát triển; sự phát triển của nền KHXH là thước đo sự phát triển của một quốc gia.
Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Hà, Bí thư Ðoàn Thanh niên Trường đại học Kinh tế Quốc dân, Giảng viên Khoa Quản trị Kinh doanh khẳng định, sau hơn 20 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giúp cho chúng ta thoát ra khỏi khủng hoảng một cách trầm trọng, đạt được nhiều thành tựu lớn trong quá trình phát triển tuy nhiên mô hình kinh tế này nhiều hạn chế. Vậy cần phải đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh CNH, HÐH, phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế như thế nào? Mô hình tăng trưởng phải dựa vào tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, mục tiêu là tăng năng suất lao động và lấy đó làm căn cứ xây dựng chính sách thay cho chạy theo chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng. Phát triển mạnh theo chiều sâu trên nền tảng tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ trong và ngoài nước. Cần cải cách lĩnh vực thu - chi ngân sách Nhà nước (NSNN). Chi NSNN trước hết tập trung vào vấn đề an sinh xã hội để khắc phục kịp thời mặt trái của kinh tế thị trường. Một phần quan trọng của chi NSNN là khẩn trương cải cách chế độ tiền lương để tạo tiền đề cho cải cách hành chính. Tăng trưởng phải đi đôi với việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong quá trình phát triển, đó là: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ðại biểu Dương Quang Hiển, đại diện cho tuổi trẻ Học viện Tài chính cho rằng, trong văn kiện Ðại hội Ðảng cần thể hiện quan điểm chỉ đạo, định hướng cho Nhà nước trong việc giải quyết mối quan hệ về kinh tế giữa Nhà nước và người đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước. Ðây là mối quan hệ rất phức tạp, nếu xử lý không khéo léo và hài hòa sẽ nảy sinh xung đột lợi ích giữa Nhà nước và người đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước. Cần phải có sự đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực của Nhà nước, chủ yếu là nguồn lực tài chính để có sự chỉ đạo và xây dựng những nguyên tắc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với người đại diện. Mặt khác, Ðảng cần chỉ đạo xây dựng và ban hành bộ luật để điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người đại diện về vai trò, quyền và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và người đại diện trong việc quản lý, đầu tư, huy động và sử dụng nguồn lực của Nhà nước, trong đó, chú trọng đặc biệt về nguồn lực tài chính, tài nguyên. Ðảng nên đưa ra những nguyên tắc về bảo toàn vốn, phải hiểu bảo toàn vốn là giữ được sức mua của đồng vốn; hiệu quả đầu tư sử dụng vốn, phải đặt ra mức sinh lời tối thiểu theo mức lãi suất vay vốn và cộng thêm mức bù rủi ro trong đầu tư sử dụng vốn; hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với người đại diện. Phải gắn trách nhiệm của người đại diện với lợi ích về kinh tế được hưởng khi thực hiện nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu đem lại hiệu quả cao đối với đồng vốn của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp...
Phát biểu ý kiến kết thúc Hội nghị, đồng chí Thịnh Giang, Phó tổng biên tập Báo Nhân Dân nêu rõ, Hội nghị giảng viên trẻ, sinh viên góp ý kiến vào các Dự thảo văn kiện Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đã thành công tốt đẹp với nhiều ý kiến tâm huyết, thẳng thắn, sâu sắc, thể hiện tình cảm, trách nhiệm của trí thức trẻ, các cấp bộ đoàn, hội cả nước và tuổi trẻ Việt Nam đối với Ðảng ta, đất nước ta. Các ý kiến đóng góp của các bạn trẻ sẽ được phản ánh, thông tin trên các ấn phẩm của Báo Nhân Dân, đồng thời được chuyển đến các cơ quan có trách nhiệm của Ðảng, góp phần hoàn thiện các Dự thảo văn kiện trình Ðại hội lần thứ XI của Ðảng.
Nguồn: Nhân Dân điện tử