Ôn lại những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đạo đức cách mạng, song những điều Người tâm huyết, những chỉ dẫn kịp thời của Người vẫn còn mãi với thời gian. Ôn lại những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong thời điểm toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đang tổng kết 4 năm thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tiến tới Đại hội XI của Đảng, cũng chính là tự răn mình, tự nhắc nhở mình và thấm nhuần sâu sắc lời Người căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Từ khi chuẩn bị thành lập Đảng, cho đến khi chuẩn bị cho chuyến đi xa về cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc. Bởi vậy, Đảng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc Tổng cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh và phồn vinh, đang ngày một đổi mới và hội nhập quốc tế.

Tháng 7-1954, theo tinh thần của Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng, còn ở miền Nam cuộc đấu tranh giải phóng vẫn còn tiếp tục. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước càng đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu cao độ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đặc biệt đội ngũ cán bộ, đảng viên. Song, giữa những năm tháng miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế, văn hoá-xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, đã xuất hiện tâm trạng thời bình, biểu hiện suy thoái và cá nhân chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ đảng viên. Nghiêm trọng hơn, đó không chỉ là những hiện tượng đơn lẻ, đó đã là căn bệnh, trở thành nguy cơ “suy thoái” của một Đảng cầm quyền.

Nhận thức rõ những gian nan, trắc trở, những khó khăn phức tạp của chặng đường trước mắt, và sớm tiên liệu được tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đạo đức cách mạng (tháng 12-1958). Trong đó, Người khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng, chỉ rõ kẻ thù, những nguy cơ rời xa đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng thời nêu rõ những biện pháp để ngăn ngừa và sửa chữa căn bệnh đó.

Mở đầu tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nói về lịch sử cuộc đấu tranh của con người với giới tự nhiên và qua trình lao động sản xuất để sinh tồn. Từ việc khẳng định vai trò sức mạnh của số đông, của tập thể, của xã hội, Người nhấn mạnh: Trong thời đại văn minh, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội. Do đó, chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt”[1]. Đồng thời, Người cũng khẳng định: Sự phát triển của các phương thức sản xuất và sự tiến bộ của xã hội loài người, từ công xã nguyên thuỷ đến cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, là không thể đảo ngược. Và trong hành trình phát triển đó, cùng với sự phát triển của lịch sử, xã hội, đã xuất hiện giai cấp. Cũng là một tất yếu khách quan, cuộc đấu tranh giai cấp giữa những người bị bóc lột và những kẻ bóc lột, giữa “bọn phong kiến địa chủ, bọn tư bản và đế quốc” và “những tầng lớp người khác, nhất là công nhân và nông dân” ngày càng quyết liệt. Vì vậy, để giành lấy thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo, vì đó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Điều này đã được lịch sử chứng minh, và đó là xu thế của thời đại.

1. Vai trò của đạo đức cách mạng và kẻ thù của đạo đức cách mạng

Nhận thức rõ tính chất quyết liệt, cam go của cuộc đấu tranh giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó đồng thời cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, người cách mạng cần phải có đạo đức cách mạng, vì “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[2].

Đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, Người nhấn mạnh: Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước, vì lợi ích chung mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình và “đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”[3]. Có đạo đức cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng, sẽ giúp mỗi người khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không lo kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá, v,v... Đồng thời, Người khẳng định: trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, đã có rất nhiều những người con ưu tú của Đảng như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai… đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực sự “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”; luôn “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình, v.v.; “ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”[4].

Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi người cách mạng phải hiểu sâu sắc rằng: Đảng ta là một đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân và dân tộc, đồng thời là người lãnh đạo cách mạng. Cán bộ, đảng viên không chỉ phải nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử vừa cải tạo thế giới, mà còn phải luôn hiểu rõ nhiệm vụ tự cải tạo bản thân mình, vì vậy, Người nêu rõ: Trong bối cảnh nhân dân miền Bắc tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện cho miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng, hơn bao giờ hết, càng cần phải có những người cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư…

Vạch rõ tên của từng kẻ địch, chỉ rõ mối quan hệ, liên minh giữa chúng, Người nhấn mạnh: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc, thói quen và truyền thống lạc hậu, là hai kẻ địch nguy hiểm. Còn chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản thường xuyên ẩn nấp trong mỗi con người, là đồng minh của hai kẻ địch kia, luôn sẵn sàng chờ dịp ngóc đầu dậy, đè bẹp ý chí cách mạng của mỗi người.

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, dù là tập thể của những con người tiên phong nhất, song Đảng cũng là một thực thể xã hội và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cũng là những con người cụ thể. Đặc biệt hơn, là một đảng kiểu mới, được xây dựng và phát triển ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, những cán bộ, đảng viên của Đảng, vốn sinh trưởng trong xã hội cũ, nên thường mang trong mình, hoặc nhiều, hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen... Đó là những “vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ”, đó chính là chủ nghĩa cá nhân, là trái ngược với đạo đức cách mạng, và nếu còn lại trong mình, “dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm, và đó là kẻ thù của đạo đức cách mạng. Mục đích trước mắt của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh để đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH và thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam “không còn ai bị bóc lột, trong đó mọi người được sung sướng, ấm no”. Không thể giành được thắng lợi trong chặng đường đầy chông gai, trắc trở này, nếu mỗi cán bộ đảng viên của Đảng không thấm nhuần và thường xuyên tu dưỡng đạo đức, hết sức trung thành phục vụ giai cấp công nhân và nông dân lao động. Vì vậy, Người nhấn mạnh: Đạo đức cách mạng “là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”. Theo Người, lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng. Do đó, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào, người cán bộ đảng viên cũng phải kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, gương mẫu trước quần chúng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân.

Trên tinh thần đó, Người kết luận: Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động. Đảng viên là người thay mặt Đảng, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở trong, chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp. Đồng thời, “vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”.

2. Rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân

Sau khi nêu rõ vai trò của đạo đức cách mạng, chỉ rõ kẻ thù của những người cách mạng là chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: cuộc sống “thời bình” của miền Bắc trong những năm qua đã làm không ít người lầm tưởng rằng cách mạng đã thành công, do đó mà để “chủ nghĩa cá nhân chớm nở”. Bên cạnh những người vẫn thường ngày rèn luyện đạo đức cách mạng, đã có không ít người thoái hoá, biến chất, chỉ lo yêu cầu hưởng thụ, nghỉ ngơi, lựa chọn công tác theo ý thích của cá nhân mình, muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm nặng, v.v. Họ quên rằng “tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, do đó tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút, sự tiên phong gương mẫu của họ cũng không còn.

Từ những biểu hiện tiêu cực nêu trên, Người nêu rõ: Cách thức để gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, chống lại chủ nghĩa cá nhân là phải rèn luyện đạo đức cách mạng, phải thường xuyên, liên tục, ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Người quan niệm, trong mọi hoạt động cách mạng, dù đó là thời kỳ hoạt động bí mật, thời kỳ khởi nghĩa, thời kỳ kháng chiến, hay trong công cuộc xây dựng miền Bắc tiến dần lên CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà, thì đó “đều là những trường học rất tốt cho chúng ta rèn luyện đạo đức cách mạng”.

Nêu ra hiện tượng một số cán bộ đảng viên vì chưa gột sạch chủ nghĩa cá nhân, nên còn "kể công" với Đảng, muốn Đảng "cảm ơn", đòi ưu đãi, và cho rằng họ "không có tiền đồ", họ "bị hy sinh", Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đó là những người “dần dần xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”. Cùng đó, Người cũng chỉ rõ những biểu hiện khác như: có một số ít đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà trở nên kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại. “Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh. Họ sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín. Họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Họ xem khinh những cán bộ ngoài Đảng”... Người kết luận, “chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ,… bị quần chúng bỏ rơi. Đó là kết quả tất nhiên của chủ nghĩa cá nhân”.

Mặt khác, Người cũng nói: hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí, họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh và “kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì”. Họ trở nên có tội với cách mạng, bởi họ không “thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ”. Họ quên mất, “trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê bình[5].

Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam là yêu cầu cấp bách của lịch sử, đó cũng đồng thời là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Bởi chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng CNXH, cho nên phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân. Tuy nhiên, khi khẳng định phải chống kẻ địch nội xâm là chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên nhấn mạnh: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ XHCN và CSCN, từ đó Người cũng khẳng định: “Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn”[6]. Vì vậy, đối với những người cách mạng, lợi ích của cá nhân luôn gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, người cách mạng phải phục tùng lợi ích chung của tập thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, “cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi. Cho nên người cách mạng cũng phải tiến lên mãi”[7], vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên của Đảng phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin. Bởi, “có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”[8]. Tuy nhiên, quá trình học tập đó, là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”[9], chứ không phải là học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin. Đặc biệt, học để trang sức, học không phải để vận dụng vào công việc cách mạng, học để loè người khác, để “diễn gương” trước tổ chức và mọi người - đó cũng là chủ nghĩa cá nhân.

Người kết luận: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng mẹ, đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... trói buộc, bịt mắt những nạn nhân của nó, khuyến khích lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân, không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Đó thực sự là kẻ thù nội xâm, là kẻ thù của tình đoàn kết và thương yêu lẫn nhau, và đó là “một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”[10].

Cuối cùng, Người khẳng định công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho công cuộc thống nhất nước nhà, là một nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang, song cũng đầy gian nan, trắc trở, vì vậy để bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, “tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng”[11].

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đạo đức cách mạng, song những điều Người tâm huyết, những chỉ dẫn kịp thời của Người vẫn còn mãi với thời gian. Ôn lại những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong thời điểm toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đang tổng kết 4 năm thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng chính là tự răn mình, tự nhắc nhở mình và thấm nhuần sâu sắc lời Người căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[12].
   ----------
 [1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1996, t.9, tr. 282. [2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 283. [3] Sđd, t.9, tr. 284. [4] Sđd, t.9, tr. 285. [5] Sđd, t.9, tr. 290. [6] Sđd, t.9, tr. 291. [7] Sđd, t.9, tr. 292. [8] Sđd, t.9, tr. 292. [9] Sđd, t.9, tr. 292. [10] Sđd, t.9, tr. 292. [11] Sđd, t.9, tr. 293. [12] Sđd, t.9, tr. 293.

 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất