Lý luận luôn là “đèn pha” thực tiễn
Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, có quan điểm cho rằng, những tồn tại, hạn chế, yếu kém trong CTCB thời gian qua có một phần nguyên nhân là do chúng ta còn thiếu lý luận soi đường?
PGS, TS Phạm Minh Chính: Mọi nhận định điều có căn nguyên của nó. Tôi cũng nhất trí cho rằng, việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, phát triển lý luận về CTCB là hết sức cần thiết. Phần việc này phải được đi trước, làm trước thì mới có cơ sở, căn cứ cho việc nâng cao chất lượng CTCB của Đảng qua các thời kỳ cách mạng khác nhau.
Như đã biết, CTCB là vấn đề then chốt của then chốt trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa rất quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chúng ta càng phải nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc hơn ý nghĩa quan trọng, tính chất phức tạp của vấn đề cán bộ và CTCB. Có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải có quan điểm và phương pháp đánh giá đúng thực trạng, phân tích nguyên nhân, có biện pháp giải quyết kịp thời, đồng thời hoạch định chính sách toàn diện, lâu dài và cơ bản.
Thực tế cho thấy, việc TKTT, NCKH, PTLL về CTCB là đòi hỏi tất yếu khách quan trong quá trình phát triển đất nước. Muốn có được cơ chế, chính sách cán bộ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, có khả năng đi vào cuộc sống, cần phải đầu tư nghiên cứu cơ bản, TKTT, PTLL một cách khoa học, bài bản. Như vậy mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu, mới có thể “có lãi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.
TKTT, NCKH, PTLL về CTCB là nhằm tìm ra những quy luật, những điểm chung, những nhân tố tích cực, những tác động tiêu cực, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, những giải pháp thúc đẩy tính tích cực và hạn chế tiêu cực hoặc để thay đổi cách làm nhằm đạt hiệu quả nhất, tìm ra xu hướng khách quan để chỉ đạo hành động thực tiễn trong CTCB. Hay nói theo cách khác, NCKH về CTCB đóng vai trò quan trọng trong thực hành CTCB. NCKH góp phần cung cấp, bổ sung, hoàn thiện phương pháp TKTT đúng đắn, khoa học cho các chủ thể thực hiện TKTT về đội ngũ cán bộ và CTCB; góp phần định hướng cho công tác TKTT về cán bộ, hạn chế khả năng duy ý chí, phiến diện, áp đặt chủ quan.
Hay nói theo cách khác, việc tăng cường TKTT, NCKH, PTLL về CTCB có tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng. Cùng với các căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn thì căn cứ khoa học không thể thiếu trong quá trình xây dựng các quyết sách về cán bộ, góp phần làm cho công tác xây dựng Đảng có hiệu quả và thiết thực hơn.
|
|
PGS.TS. Phạm Minh Chính. |
PV: Với tầm quan trọng như đồng chí vừa phân tích, chắc chắn công tác TKTT và NCKH, PTLL về CTCB được Đảng ta rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo?
PGS, TS Phạm Minh Chính: Đúng là như vậy. Nhìn lại quá trình lãnh đạo đất nước từ ngày thành lập đến nay, thấy rằng: Đảng ta luôn bám sát các nguyên tắc cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa TKTT và NCKH, PTLL để chỉ đạo và triển khai CTCB. Chỉ tính trong giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến nay, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết chỉ đạo công tác TKTT, NCKH, PTLL về lĩnh vực xây dựng Đảng nói chung và về CTCB nói riêng.
Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992 của Bộ Chính trị về công tác lý luận đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy, đi sâu TKTT và PTLL một cách sáng tạo. Tiếp đến, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa IX, ngày 18-3-2002 về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng và các cơ quan chức năng phải đẩy mạnh TKTT, NCKH nhằm “…xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới; trên cơ sở kết hợp “xây” và “chống”, trong đó lấy “xây” làm chính, cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực; lấy cái tích cực, cái tốt đẩy lùi cái tiêu cực, cái xấu…; đề cao trách nhiệm của mỗi tổ chức đảng và đảng viên đấu tranh loại trừ tham nhũng, lãng phí, quan liêu ở cơ quan, đơn vị, cơ sở mình. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, tự học tập, tự rèn luyện, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng và tình trạng thoái hóa, biến chất trong Đảng. Kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước”.
Trên cơ sở nghiên cứu và TKTT hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992 của Bộ Chính trị về công tác lý luận, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014 về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030. Nghị quyết đã đề ra các phương châm, nhiệm vụ, biện pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác lý luận đến năm 2030, trong đó có các chỉ đạo quan trọng về TKTT và NCKH trong công tác xây dựng Đảng nói chung và CTCB nói riêng.
Đại hội XII của Đảng chỉ ra 10 nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, trong đó có giải pháp “Đẩy mạnh công tác TKTT, NCKH, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan NCKH của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng TKTT, NCKH, đáp ứng yêu cầu mới”. Ban Bí thư đã ban hành Hướng dẫn số 02 ngày 8-2-2018 về TKTT, nghiên cứu lý luận trong lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, như: Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng; công tác tổ chức cán bộ; những kinh nghiệm hay, mô hình mới trong sắp xếp, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, cải cách hành chính; công tác kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong CTCB; phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên v.v.. Bài học rất quan trọng được rút ra trong quá trình tổng kết 30 năm đổi mới là phải tôn trọng quy luật khách quan, bám sát thực tiễn, coi trọng TKTT, NCKH, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Quán triệt các nghị quyết, chỉ thị và sự chỉ đạo của Đảng, việc TKTT và NCKH về CTCB được các cơ quan ở Trung ương, các địa phương tích cực triển khai và đã thu được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào sự thành công của công cuộc đổi mới. Nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp bộ, ngành, địa phương; nhiều cuộc TKTT lớn đã được tiến hành trên quy mô cả nước, góp phần đổi mới tư duy lý luận của Đảng, tạo cơ sở khoa học cho đổi mới lĩnh vực xây dựng Đảng, trong đó có CTCB.
Những kết quả TKTT về CTCB là cơ sở quan trọng cho việc ban hành các nghị quyết, kết luận liên quan tới CTCB trong thời gian qua, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, khoá VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khoá VIII về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”;...
Hiện tại, nhiều đề án liên quan tới CTCB đang được Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai trên cơ sở nghiên cứu, TKTT một cách bài bản, có hệ thống, làm cơ sở khoa học cho việc chỉnh sửa, bổ sung và ban hành các quyết sách mới về CTCB. Cụ thể như các đề án về phân cấp quản lý cán bộ; giới thiệu, bổ nhiệm cán bộ; xác định tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cán bộ; việc luân chuyển cán bộ; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương và bí thư cấp ủy các cấp; quy định về một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ Đảng…
Nhận rõ yếu kém để quyết liệt khắc phục
PV: Cùng với những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, đồng chí có thể chia sẻ những vấn đề đặt ra đối với công tác này?
PGS, TS Phạm Minh Chính: Đúng như đồng chí đặt vấn đề, bên cạnh những thành quả đạt được, việc TKTT, NCKH, PTLL về CTCB vẫn còn bộc lộ không ít hạn chế, bất cập. Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: “Công tác TKTT, NCLL chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Nhìn chung, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả NCLL chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn, “thiếu gắn bó mật thiết giữa NCLL với TKTT, giữa cán bộ lý luận và cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, giữa công tác NCLL và công tác giảng dạy, đào tạo lý luận”. Công tác TKTT, NCLL chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế; việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan NCLL còn hạn chế. Chính vì thế, một số nội dung trong nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi.
Trên thực tế, còn rất nhiều hạn chế trong TKTT, NCKH, PTLL về CTCB. Chủ nghĩa kinh nghiệm, bảo thủ, tư duy máy móc theo lối mòn cũ đã cản trở việc tiếp cận tri thức mới, phương pháp khoa học hiện đại trong nghiên cứu và TKTT. Hậu quả là có một số nội dung trong quy định, quy chế về cán bộ mới được ban hành nhưng không sát thực tế, không có tính khả thi.
Các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành về xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị chưa được đầu tư thỏa đáng về lãnh đạo, chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công tác nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức cán bộ. Đội ngũ nghiên cứu chủ yếu thiên về lý thuyết, chưa gắn chặt với thực tiễn về công tác tổ chức cán bộ; một số còn hạn chế về năng lực, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa có đủ khả năng để tiếp cận và ứng dụng các kết quả nghiên cứu, lý thuyết hiện đại của các nước trong lĩnh vực tổ chức cán bộ như khoa học về tổ chức, quản trị nhân lực trong khu vực công, tâm lý lãnh đạo, lãnh đạo học… Nhiều đề tài nghiên cứu còn chung chung, kém hiệu quả, thiếu khả năng ứng dụng thực tiễn.
Trong đội ngũ làm công tác tham mưu về công tác tổ chức cán bộ có không ít người chưa được đào tạo bài bản theo chuyên ngành, không được cập nhật kiến thức mới thường xuyên nên năng lực nghiên cứu, TKTT, khái quát thành lý luận còn hạn chế. Nhiều người làm việc theo thói quen, lối mòn lạc hậu, nặng về chủ nghĩa kinh nghiệm trong xử lý vấn đề, rất ít người được đào tạo, hướng dẫn phương pháp nghiên cứu tiến tiến và tổng kết kinh nghiệm về CTCB còn hạn chế.
Những hạn chế, bất cập đó có nguyên nhân khách quan là quá trình đổi mới, phát triển đất nước nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, chưa có tiền lệ. Chính vì thế, việc TKTT, NCKH, PTLL về CTCB cũng không kịp thay đổi để thích ứng với yêu cầu.
PV: Vậy nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên là gì, thưa đồng chí?
PGS, TS Phạm Minh Chính: Nguyên nhân thì có cả chủ quan và khách quan. Ở đây tôi chỉ điểm qua những nguyên nhân chủ quan cấp thiết phải nhận diện.
Thứ nhất, một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự coi trọng công tác lý luận, nhất là TKTT; không có quy định gắn NCKH với TKTT về CTCB, vì thế xem nhẹ việc chỉ đạo nghiên cứu, TKTT; việc vận dụng cơ sở khoa học để lãnh đạo không trở thành nguyên tắc trong CTCB. Một số nơi thực hiện các khâu trong CTCB không dựa trên những căn cứ khách quan, bị chi phối bởi ý chí chủ quan của người đứng đầu, áp đặt, thiếu dân chủ, không minh bạch.
Thứ hai, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan nghiên cứu chuyên nghiệp với các cơ quan tham mưu về CTCB và các địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức thực hiện. Do đó, nội dung nghiên cứu của các cơ quan chuyên môn không ăn khớp với nhu cầu của các cơ quan tham mưu, kết quả nghiên cứu không có địa chỉ ứng dụng hoặc khả năng sử dụng các kết quả nghiên cứu không cao, gây lãng phí các nguồn lực và quan trọng nhất là chất lượng ban hành các quyết sách về CTCB chưa được như mong muốn, nhiều nội dung khó đi vào cuộc sống.
Thứ ba, sự hạn chế về năng lực chuyên môn, tư duy lý luận của đội ngũ tham mưu về CTCB là nguyên nhân cơ bản dẫn tới chất lượng các quyết sách về CTCB không cao. Do hạn chế về trình độ, nhận thức và tầm nhìn nên cán bộ tham mưu về CTCB không phát hiện được những vấn đề có tính hệ thống, mang tính quy luật và không sử dụng được các phương pháp nghiên cứu hiện đại, khoa học để thực hiện TKTT.
Thứ tư, một bộ phận cán bộ lãnh đạo và các nhà tổ chức chuyên nghiệp chưa thích ứng kịp với tư duy, cách làm mới phù hợp với cơ chế thị trường; còn tư tưởng bảo thủ, không coi CTCB và quản lý đội ngũ cán bộ là một môn khoa học tổ chức. Vì thế, chưa bám sát thực tiễn để tổng kết những mô hình hay, cách làm sáng tạo ở các địa phương, cơ quan, đơn vị một cách kịp thời; không mở rộng nghiên cứu các lý thuyết liên quan tới CTCB của thế giới, không biết và cũng không dám vận dụng những kết quả nghiên cứu của các nước về khoa học tổ chức vào thực tế.
Thứ năm, chưa có một cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức, cán bộ để triển khai tổng kết thực tế một cách bài bản, toàn diện và khoa học, trên cơ sở đó tham mưu cho Đảng những vấn đề về tổ chức bộ máy, biên chế, về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
Những hạn chế, cùng với những nguyên nhân nêu trên cần phải được thẳng thắn nhận diện để quyết liệt khắc phục trong thời gian tới.
Đột phá một số nội dung trong công tác lý luận
PV: Để phát huy thành quả, khắc phục khuyết yếu như đồng chí vừa khẳng định, sắp tới chúng ta cần tập trung vào những công việc gì?
PGS, TS Phạm Minh Chính: Trong thời gian tới, để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, công tác nghiên cứu, TKTT và xây dựng lý luận về tổ chức cán bộ phải tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, nắm vững nguyên lý, phương pháp luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong TKTT và NCKH. Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; đồng thời tiếp thu các thành tựu mới, tinh hoa của nhân loại trong TKTT, NCKH, PTLL về công tác xây dựng Đảng nói chung và CTCB nói riêng.
Hai là, phát huy vai trò của các cấp ủy, chính quyền trong công tác khoa học, chỉ đạo thường xuyên việc NCKH với TKTT; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, định hướng nghiên cứu trong từng thời kỳ. Bảo đảm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong CTCB. Thực tiễn là điểm xuất phát và cũng là điểm đến của lý luận. Lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng và phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, bảo đảm hài hòa giữa những yêu cầu trước mắt với lâu dài, giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, triển khai. Khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm trong TKTT, NCKH về CTCB.
Ba là, phát huy dân chủ, khuyến khích sáng tạo trong TKTT, NCKH về CTCB. Có cơ chế, chính sách tạo động lực để thu hút các chuyên gia nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn tích cực tham gia TKTT, NCKH, PTLL. Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học. Xây dựng không khí dân chủ, cởi mở và có nguyên tắc trong thảo luận, tranh luận.
Bốn là, xây dựng các chương trình, mục tiêu trong nghiên cứu và TKTT về CTCB, đáp ứng tình hình mới. Đẩy mạnh công tác NCKH, xây dựng tổ chức và con người làm công tác tổ chức, cán bộ. Xây dựng chương trình, kế hoạch và lộ trình thực hiện việc TKTT, NCKH về tổ chức và cán bộ phù hợp với đặc điểm của nước ta trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác TKTT, NCKH, bám sát thực tiễn để tổng kết những mô hình hay, cách làm sáng tạo ở các địa phương, cơ quan, đơn vị một cách kịp thời; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng.
Năm là, xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác TKTT, NCKH về CTCB. Thu hút đội ngũ cán bộ lý luận và các cơ quan nghiên cứu tham gia vào quá trình hoạch định đường lối, chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có các quyết sách về CTCB. Có biện pháp phù hợp nhằm phát huy trí tuệ, năng lực sáng tạo của đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng và có trình độ chuyên môn cao (cả đương chức và nghỉ hưu), các chuyên gia vào xây dựng, góp ý và phản biện các quyết sách về CTCB.
Sáu là, nghiên cứu xây dựng cơ quan nghiên cứu về khoa học tổ chức cán bộ có chức năng nghiên cứu, TKTT về các quyết sách cán bộ của Đảng, tham mưu cho Đảng những quyết sách mới, đột phá. Xây dựng hệ thống chương trình nghiên cứu có mục tiêu, yêu cầu, nội dung cụ thể và thiết thực. Có chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của các nhà khoa học, nghiên cứu về CTCB, tổ chức.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
Nhóm phóng viên (thực hiện)
Nguồn: Báo QĐND