Tính đến cuối năm 2012, tại Bến Tre số người tham gia bảo hiểm xã hội chiếm khoảng 8,6% lực lượng lao động, số người tham gia bảo hiểm y tế chiếm khoảng 55,8% dân số. Tiếp cận của người dân về chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn rất hạn chế, chỉ trừ các đối tượng bắt buộc phải tham gia và các đối tượng được ngân sách Nhà nước hỗ trợ cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí.
Với vai trò là cơ quan trực tiếp thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020”, Bảo hiểm xã hội tỉnh đã chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động số 25-Ctr/TU ngày 7/3/2013 của Tỉnh Ủy và Công văn số 5655/UBND–VHXH ngày 04/12/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Hàng năm, căn cứ vào lộ trình thực hiện Nghị Quyết số 21-NQ/TW giai đoạn 2012–2020, Bảo hiểm xã hội tỉnh tham mưu trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định giao chỉ tiêu thực hiện bảo hiểm y tế nhân dân cho từng huyện, thành phố. Đồng thời ban hành Quyết định thành lập Tổ công tác liên ngành về kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh. Những văn bản này vừa có ý nghĩa về mặt cơ sở pháp lý, vừa thể hiện ý chí thống nhất trong toàn hệ thống chính trị đối với việc thực hiện công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Sau 05 năm triển khai thực hiện, Nghị Quyết số 21-NQ/TW đã thực sự đi vào đời sống trong đời sống nhân dân, trong toàn Đảng và toàn dân.
Với tinh thần chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể đã góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực, khẳng định sức sống trong toàn hệ thống chính trị. Trên cơ sở Chương trình hành động số 25-Ctr/TU của Tỉnh ủy, các cấp ủy, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong toàn Ngành nắm vững các nội dung cơ bản trong Nghị quyết, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết; giúp các cấp chi bộ trực thuộc đảng ủy, lãnh đạo các phòng, đơn vị trực thuộc xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết thật cụ thể, sát với tình hình thực tế của Ngành, địa phương, đơn vị mình; góp phần đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Giai đoạn 2013 – 2017, số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng hàng năm, năm sau cao hơn năm trước, trung bình mỗi năm tăng 4.062 người. Năm 2013 có 75.548 người tham gia BHXH, 9 tháng đầu năm 2017 có 89.248 người tham gia, tăng 13.700 người (tăng 18,1%). Về tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội so với lực lượng lao động của tỉnh, năm 2013 tỷ lệ này là 9,91%, năm 2017 là 11,49%, tăng 1,58%. So với bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia bảo hiểm y tế có sự tăng trưởng nhanh hơn, năm 2013 có 765.448 người tham gia, năm 2017 có 1.135.762 người tham gia, tăng 370.314 người (tăng 48,3%), độ bao phủ bảo hiểm y tế năm 2013 là 60,65%, năm 2017 là 89,8%, tăng 29,15%.
Bên cạnh việc tập trung triển khai các giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, việc kiện toàn và nâng cao chất lượng phục vụ, gia tăng sự hài lòng cho người thụ hưởng được cơ quan Bảo hiểm xã hội coi trọng và đặt lên hàng đầu. BHXH tỉnh phối hợp chặt chẽ với Ngành Y tế nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho người dân, không ngừng củng cố, bảo đảm chất lượng phục vụ và sự hài lòng của người bệnh có thẻ BHYT. Các cơ sở khám chữa bệnh đã đầu tư mua sắm trang thiết bị, mở rộng phạm vi hoạt động chuyên môn, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại các tuyến, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng cao. Hiện nay 100% trạm y tế xã có bác sĩ, số lượng thuốc, vật tư y tế, trang thiết bị cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác khám chữa bệnh ban đầu cho người dân.
Hiện nay, Bảo hiểm xã hội tỉnh đã ký hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế với 17 đơn vị (bao gồm 162 cơ sở đặt từ tỉnh xuống huyện, xã). Trong đó, thẻ đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại các cơ sở tuyến tỉnh là 162.857 thẻ chiếm tỷ lệ 15,06%/tổng thẻ BHYT; thẻ đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại các cơ sở tuyến huyện là 352.605 thẻ chiếm tỷ lệ 33,7 %/ tổng thẻ BHYT; thẻ đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại các cơ sở tuyến xã là 528.703 thẻ chiếm tỷ lệ 50,6% /tổng số thẻ; đăng ký khám chữa bệnh ban đầu các cơ sở ngoài tỉnh 1.011 thẻ bảo hiểm y tế. Công tác giải quyết chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động thực hiện kịp thời, đúng quy định với thủ tục hành chính được rút gọn về thời gian và giấy tờ. Việc ứng dụng phần mềm trong thẩm định giải quyết hồ sơ hưởng trợ cấp BHXH giúp bộ phận nghiệp vụ thẩm định, quản lý, chi trả các chế độ nhanh chóng, kịp thời, đúng, đầy đủ đến tận tay người thụ hưởng, không xảy ra sai sót trong xét duyệt và quản lý chi trả. Tình trạng lạm dụng quỹ BHXH từ phía người tham gia được dự báo, có những giải pháp đề xuất kịp thời qua đó khắc phục thất thoát đối với nguồn quỹ BHXH.
Từ năm 2013- 2017, Bảo hiểm xã hội tỉnh giải quyết chế độ hưu trí 2.568 hồ sơ; tử tuất 381 hồ sơ; giải quyết chế độ BHXH một lần 47.639 hồ sơ; ốm đau 86.278 lượt người; thai sản 12.297 lượt người; dưỡng sức phục hồi sức khỏe 5.118 lượt người; Bên cạnh việc chi trả tiền mặt, chi trả qua hệ thống ngân hàng được triển khai thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người thụ hưởng tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại, hiện có hơn 1.692 lượt người đăng ký nhận tiền chế độ bảo hiểm xã hội qua hệ thống ATM với số tiền chi trả ước tính hơn 21,548 tỷ đồng. Với những kết quả trong 5 năm qua, có thể khẳng định rằng Nghị quyết đã tạo ra sức mạnh trong toàn hệ thống chính trị, là tiền đề quan trọng để hoàn thực hiện thành công chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh.
Tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị, hoàn thành các mục tiêu đã đề ra, được biết, cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh sẽ tiếp tục tham mưu với các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương giao chỉ tiêu thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đến các cấp, các ngành. Phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành khảo sát, tuyên truyền vận động tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Tập trung phát triển đối tượng người lao động trong doanh nghiệp, học sinh sinh viên, hộ gia đình, hộ gia đình nông lâm ngư diêm nghiệp có mức sống trung bình. Hoạch định chính sách và xây dựng lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội hợp lý và khoa học, gắn liền giữa thực tiễn và mục tiêu của Nghị quyết số 21-NQ-TW. Từ đó, có cơ sở để theo dõi, tổng kết, đánh giá và kịp thời khen thưởng tạo động lực cho các tập thể và cá nhân hoàn thành cá nhiệm vụ chính trị được giao. /.