Những trang sử chống ngoại xâm, giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh ngoại giao là một mặt trận quan trọng, gắn liền với vận mệnh dân tộc và luôn có mối quan hệ hữu cơ với mặt trận quân sự, chính trị nhằm thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng thực hiện mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Mối quan hệ đó được thể hiện đậm nét: trên bàn đàm phán không thể giành thắng lợi nếu không có chiến thắng trên chiến trường và những chiến thắng trên chiến trường sẽ không được khẳng định nếu không có nghệ thuật giành thắng lợi trên bàn đàm phán. Thắng lợi trên bàn đàm phán sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi lớn hơn trên chiến trường và thắng lợi trên chiến trường sẽ quyết định trực tiếp thắng lợi trên bàn đàm phán. Hiệp định Pa-ri chính là kết quả của sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tạo ra bước lịch sử để dân tộc ta quyết tâm chung sức đồng lòng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cuối năm 1965, với những thắng lợi liên tiếp của nhân dân ta ở hai miền đất nước, Đảng ta đã tính đến kế hoạch đàm phán với Mỹ, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Song, ngoại giao chỉ được mở màn và được coi là mặt trận sau Hội nghị lần thứ 13 (1-1967) Ban chấp hành Trung ương: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trên chiến trường và là cơ sở cho thắng lợi của đấu tranh ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán những gì mà chúng ta giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không đơn thuần chỉ là phản ánh của tình hình chiến trường, mà trong bối cảnh quốc tế hiện nay và do tính chất của cuộc chiến tranh, đấu tranh ngoại giao còn đóng một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”[1]. Và từ đây, Đảng ta mới thực sự triển khai kế hoạch và quyết định đẩy mạnh đấu tranh quân sự trên cả hai miền, đồng thời đưa ngoại giao thành một mặt trận quan trọng để mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: ngoại giao là rất quan trọng nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng.
Trên tinh thần Hội nghị 13 BCHTW Đảng, ngày 28-1-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trả lời phỏng vấn nhà báo Australia, Winfred Burchet: “Nếu Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) có thể nói chuyện với Mỹ”. Cuối năm 1967, Bộ trưởng lại tuyên bố: “Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam, VNDCCH sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề liên quan”[2]. Điều đó thể hiện rất rõ quan điểm, lập trường cũng như thiện chí của Việt Nam trước sau như một, mong muốn giải quyết vấn đề Việt Nam bằng phương pháp hoà bình, nếu Mỹ chấp nhận ngừng ném bom. Nhưng, chỉ đến khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 với những đòn “sấm sét” tiến công liên tiếp đã làm thay đổi hẳn tình hình theo hướng có lợi cho ta và làm giảm uy thế, sức mạnh quân sự và lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, Tổng thống Giôn-xơn mới tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 và cử người đàm phán với đại diện Chính phủ VNDCCH tại Pa-ri. Hành động của Mỹ không chỉ thừa nhận sự phá sản của chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc và chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam mà còn là bước khởi đầu của quá trình xuống thang chiến tranh của Mỹ, đánh dấu xu thế không thể đảo ngược là thế và lực của dân tộc Việt Nam ngày càng mạnh, Mỹ nguỵ ngày càng suy yếu và đi xuống. Thắng lợi quân sự đã mở cánh cửa cho đàm phán ngoại giao! Ngày 13-5-1968, Hội nghị Pa-ri giữa 2 bên giữa VNDCCH và Mỹ khai mạc. Song, do lập trường cương quyết của Chính phủ VNDCCH, buộc Mỹ phải cùng ngồi nói chuyện chính thức với MTDTGPMN và từ tháng 6-1969 là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam (CPLTCHMNVN).
Ngày 18-1-1969, phiên họp đầu tiên của Hội nghị Pa-ri về Việt Nam khai mạc tại phòng họp của trung tâm Hội nghị quốc tế ở Pa-ri nước Pháp. Bốn đoàn đại biểu của VNDCCH, MTDTGPMN, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã bàn về việc chuẩn bị cho phiên họp toàn thể lần thứ nhất. Ngày 25-1-1969, Hội nghị bốn bên chính thức khai mạc, trưởng đoàn của MTDTGPMN Trần Bửu Kiếm đã đưa ra lập trường năm điểm, thực chất là tuyên bố chính trị và bốn tháng sau đưa ra giải pháp toàn bộ mười điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam. Đây là giải pháp hoàn chỉnh đầu tiên được đưa ra tại Hội nghị bốn bên. Để đối phó lại, ngày 14-5-1969, Tổng thống Ních-xơn đưa ra kế hoạch tám điểm với nội dung chính là việc rút quân Mỹ với việc rút quân miền Bắc và giữ chính quyền Sài Gòn, đồng thời tăng cường chi viện cho chính quyền Sài Gòn đẩy mạnh chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc nhân dân Việt Nam phải thương lượng dưới sức ép của bom đạn Mỹ.
Trước âm mưu, thủ đoạn và sức mạnh của Mỹ, trên cơ sở giải pháp mười điểm, ngày 6-6-1969, CPLTCHMNVN ra đời - chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam Việt Nam. Vừa ra đời, Chính phủ đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao. Từ đây, hoạt động ngoại giao Việt Nam có đặc thù riêng, cùng song song tồn tại hai hình thức ngoại giao - bên cạnh hoạt động ngoại giao của Bộ Ngoại giao nước VNDCCH còn có hoạt động Ngoại giao của CPLTCHMNVN. Tuy hình thức, phương châm hoạt động có khác nhau, nhưng cả hai đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện quan điểm, nguyên tắc nhất quán “tuy một mà hai và tuy hai mà một”, cùng nhằm thực hiện một mục tiêu, chiến lược chung là buộc Mỹ chấm dứt mọi hoạt động xâm lược, rút hết quân về nước, công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 25-8-1969, trả lời thư của Tổng thống Mỹ Ních-xơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muốn vậy, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam và của dân tộc Việt Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài. Đó là cách đúng đắn để giải quyết vấn đề Việt Nam phù hợp với quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam, với lợi ích của nước Mỹ và nguyện vọng hoà bình của nhân dân thế giới. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự”[3]. Vì vậy, cùng với mười điểm, tám điểm ngày 14-9-1970, bảy điểm ngày 1-7-1971 và hai điểm nói rõ thêm trong giải pháp bảy điểm, CPLTCHMNVN đòi Mỹ phải rút nhanh toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, thành lập ở miền Nam Việt Nam một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần để tổ chức tuyển cử. Đồng thời, để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, chủ trương của Đảng đề ra tập trung trong 3 NQTW 18, 19, 20: Kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, thực hiện tổng tiến công liên tục, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ cả về chính trị, quân sự và ngoại giao.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lời chúc Tết năm 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và Di chúc thiêng liêng của Người, quân dân miền Nam cùng với miền Bắc ra sức đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ bằng những chiến thắng oanh liệt trên chiến trường miền Nam Việt Nam và hai nước bạn Lào, Căm-pu-chia. Trong đó, đặc biệt là thắng lợi ở Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Căm-pu-chia. Ngày 30-3-1972, quân ta bắt đầu cuộc tiến công, đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu, từ đó, phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam và kéo dài trong năm 1972. Sau gần ba tháng chiến đấu anh dũng, quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 25 vạn quân, phá và thu một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn hơn 1 triệu dân. Thắng lợi trên chiến trường cùng với thiện chí của ta trên bàn đàm phán đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Phong trào phản đối Mỹ leo thang, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên thế giới nhất là phong trào phản chiến ngày càng lan rộng trên toàn nước Mỹ.
Trước làn sóng biểu tình mạnh mẽ ở Mỹ, nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới cộng với sự thất bại nặng nề trên chiến trường và những đòn tấn công ngoại giao trên bàn đàm phán, từ tháng 7-1970, Tổng thống Ních-xơn ra lệnh rút quân dần ra khỏi miền Nam Việt Nam. Điều này khẳng định sự thành công trong thực hiện nghệ thuật kết hợp đánh - đàm của Đảng ta. Đấu tranh ngoại giao không chỉ khuyếch trương thắng lợi trên chiến trường, củng cố niềm tin cho nhân dân và bạn bè quốc tế, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ mà còn hỗ trợ, che chắn cho chiến trường trong những thời điểm khó khăn (1969-1971). Cuối năm 1971, ta giành thắng lợi quan trọng trên mặt trận quân sự, buộc Mỹ phải từ bỏ yêu sách đòi ta phải rút quân khỏi miền Nam, đánh dấu sự thành công trong nguyên tắc nhất quán trong đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Pa-ri của ta là: “quân Mỹ rút ra, quân ta ở lại” - điểm mấu chốt, quan trọng nhất trong đàm phán đã được khai thông nên thời gian này, ta dùng sách lược tạm thời không đòi loại bỏ chính quyền Thiệu. Cùng với những thoả thuận đạt được trên bàn đàm phán, thắng lợi của ta trong Xuân - Hè 1972 đã tạo bước ngoặt có tính chất quyết định về so sánh lực lượng trên chiến trường và quá trình đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, buộc Mỹ xuống thang chiến tranh.
Mỹ từng bước “xuống thang” chiến tranh, song ý đồ thực dân mới của chúng không hề thay đổi. Tổng thống Níchxơn cho rằng với tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn của mình Mỹ đàm phán chỉ để thực hiện mục tiêu duy trì và củng cố chính quyền Thiệu làm công cụ thực hiện âm mưu thực dân mới của Mỹ và chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới. Thực hiện mưu đồ đó, Mỹ sử dụng chiêu bài “đàm phán không điều kiện” và các thủ đoạn ngoại giao như “ngừng bắn”, “ngừng bắn tại chỗ”, “ngừng bắn toàn Đông Dương”, “hai bên cùng xuống thang chiến tranh”, “hai bên cùng rút quân”… Mỹ thực hiện chính sách đàm phán trên thế mạnh, vừa đàm phán vừa đe doạ. Âm mưu, thủ đoạn của Mỹ không đánh lừa được ta mà còn bị ta vạch trần trên bàn đàm phán và trước dư luận quốc tế. Ta luôn vững vàng, tích cực chủ động trong đàm phán nên đã đối phó thắng lợi với những thủ đoạn ngoại giao tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Sau chiến thắng Xuân - Hè 1972, trên các mặt trận lớn, từ Trị Thiên đến đồng bằng sông Cửu Long, ta giải phóng một vùng rộng lớn, làm thay đổi lớn so sánh lực lượng, tạo ra khả năng kết thúc chiến tranh. Các bên bước vào một cuộc đua nước rút trên bàn đàm phán nhằm biến kết quả quân sự trên chiến trường thành kết quả chính trị - ngoại giao được ghi nhận bằng một hiệp định. Ngoại giao lúc này không chỉ là cuộc đàm phán thông thường mà còn là một “cuộc chiến không tiếng súng” của các nhà ngoại giao các bên và có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả cuối cùng của chiến cục năm 1972 cũng như đến toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam[4]. Phía VNDCCH coi Hội nghị Pa-ri không chỉ là các cuộc đàm phán ngoại giao thông thường mà còn là một mặt trận. Mặt trận ấy không chỉ có ý nghĩa tuyên truyền cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của người Việt Nam mà còn đem lại sự xác nhận những kết quả của các cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Vì vậy, tháng 7-1972, Bộ Chính trị đã đưa ra quyết sách: Chuyển từ chiến lược chiến tranh sang chiến lược hòa bình.
Ngày 8-10-1972, phái đoàn VNDCCH đưa cho phía Mỹ dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và hai bên thảo luận cụ thể từng điều khoản, từng câu chữ của Hiệp định. Ngày 20-10, Tổng thống Ních-xơn gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định “Văn bản của Hiệp định bây giờ có thể xem như đã hoàn thành” và thỏa thuận sẽ ký vào ngày 31-10-1972. Kết quả này thể hiện sự phối hợp và hỗ trợ nhịp nhàng và chặt chẽ giữa hai đoàn của ta trong suốt quá trình đàm phán. Đoàn của Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời thường công khai đưa ra các sáng kiến hòa bình. Đoàn VNDCCH luôn hậu thuẫn và ủng hộ các sáng kiến đó, đồng thời tập trung vào cuộc đấu tranh thương lượng với Mỹ khi cuộc đàm phán đi vào giai đoạn thực chất. Quan hệ hỗ trợ nhau giữa quân sự với ngoại giao một lần nữa thể hiện đậm nét nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” của ta ở chính giai đoạn chót của đàm phán, đi những nước cờ quyết định!
Song, sau khi tái đắc cử, Tổng thống Ních-xơn trở mặt, Mỹ đưa ra nhiều trở ngại để trì hoãn việc ký Hiệp định. Ông gửi công hàm đề nghị hai bên có cuộc gặp riêng để bàn thêm và đòi sửa đổi hầu hết các vấn đề thực chất trong tất cả các chương theo yêu cầu của Chính quyền Sài Gòn. Cuộc đàm phán diễn ra căng thẳng, bế tắc trong suốt tháng 11 và đầu tháng 12-1972. Giữa lúc đàm phán bế tắc, ngày 18-12-1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn cho máy bay chiến lược B.52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận, mở đầu chiến dịch mang mật danh “Cuộc hành quân Lineblacker II”. Đồng thời, Oa-sinh-tơn gửi công hàm cho Việt Nam đề nghị họp lại. VNDCCH không trả lời! Và nhận ra thủ đoạn của Mỹ đúng như tiên đoán của Bác Hồ: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua”[5].
Thực hiện lời dạy của Bác, quân và dân Thủ đô chủ động bước vào cuộc chiến chống “Siêu pháo đài bay B.52” của Mỹ bằng tất cả lòng căm thù, sự dũng cảm, ý chí và trí tuệ của Việt Nam và đã làm nên kỳ tích 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ” trên bầu trời Hà Nội. Chiến công này đã làm sụp đổ hoàn toàn thần tượng bất khả chiến bại của “không lực Hoa Kỳ”, làm hoảng loạn tinh thần của những người cầm quyền nước Mỹ, Tổng thống Ních-xơn phải thốt lên rằng: Nỗi sợ của chúng ta trong những ngày này không phải là do những làn sóng phản đối phê phán nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới, mà chính là ở mức độ tổn thất về máy bay B.52 quá nặng nề. Thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, tổn thất nặng nề trong trận “Điện Biên Phủ trên không” và bị dư luận quốc tế lên án, ngày 29-12-1972, Mỹ buộc phải ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri, các bên ký tắt ngày 23-1-1973 và ký chính thức ngày 27-1-1973 “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Cuộc đàm phán Pa-ri về Việt Nam là một Hội nghị dài nhất trong lịch sử đấu tranh ngoại giao thế giới (4 năm 8 tháng 14 ngày). Đây thực sự là cuộc đấu trí vô cùng gay go, phức tạp, đầy kịch tính trên mặt trận ngoại giao, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của toàn dân tộc. Đồng thời cũng là Hội nghị thể hiện rõ nét nhất, hiệu quả nhất, thành công nhất của nghệ thuật kết hợp đánh - đàm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong gần 5 năm triển khai cục diện đánh - đàm, ngoại giao trở thành một mặt trận có vai trò chiến lược phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị, huy sức mạnh tổng hợp của các mặt trận và kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức đấu tranh, từng bước tạo ra thế, thời, lực, đánh bại tên đế quốc đầu sỏ Mỹ với tiềm lực kinh tế - quốc phòng hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, buộc chúng “tâm phục, khẩu phục” ngồi vào bàn đàm phán, ký vào Hiệp định Pari. Hiệp định Pa-ri biểu hiện đỉnh cao của nghệ thuật kết hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa đánh - đàm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam - thắng lợi quyết định tạo ra bước ngoặt lịch sử để dân tộc Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc vào ngày 30-4-1975, thu non sông về một mối, cả nước đi lên xây dựng CNXH.
Phạm Thị Nhung
Trường sĩ quan Lục quân 2
[1] Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb CTQG, H.2001. tr.174. [2] http://vietbao.vn/The-gioi/Dien-bien-chinh-cua-Hoi-nghi-Paris-ve-Viet-Nam/10805061/162/ do Đình Chính tổng hợp. [3] Hồ Chí Minh toàn tập, t.12, Nxb CTQG, H.2000, tr.489. [4]Alain Wasmes: Vietnam-La peau du Pachyderme - Edition Socialis, Paris, 1976. Dịch giả: Nguyễn Hữu Cầu. Nxb Công an nhân dân, H. 2004, tr.12.[5] Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Nxb QĐND, H.1990, tr.203.