Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam - chính quyền cách mạng về tay nhân dân. Tuy nhiên, nhân dân Việt Nam được hưởng quyền độc lập chưa bao lâu, ngày 23-9-1945, được sự hà hơi tiếp sức của quân Anh và quân Nhật, quân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Việc giữ vững chính quyền cách mạng lúc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự tồn vong của dân tộc!
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ ý đồ muốn lập lại sự thống trị của Pháp ở Liên bang Đông Dương trong tuyên bố Pờ-ra-da-vin-lơ của tướng Đờ-Gôn ngay sau khi nước ta giành được độc lập, Người đã đại diện cho Chính phủ và nhân dân Việt Nam thương lượng để cố tránh một cuộc chiến tranh có thể xảy ra. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì kẻ thù càng đẩy nhanh quá trình xâm lược nước ta. Tình thế cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc” buộc Đảng ta - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh - phải có một sự lựa chọn lịch sử, quyết định chiến lược cũng như sách lược đúng đắn để chuyển xoay vận nước đang lâm nguy. Người đã liên tiếp viết thư kêu gọi Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và trực tiếp gặp những người đứng đầu quân đội Pháp ở Hà Nội để cứu vãn hoà bình. Đồng thời Đảng và Bác Hồ đã kịp thời đề ra chủ trương và quyết sách đúng đắn, giữ vững nguyên tắc về chiến lược nhưng mềm dẻo về sách lược. Thực hiện chiến lược “tránh đụng đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc”, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa các thế lực thù địch, dành thời gian củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến mà dân tộc Việt Nam không thể tránh khỏi.
Chiến lược và sách lược của Đảng và Bác Hồ trong những thời điểm hết sức khó khăn này thể hiện ý chí hòa bình, độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam, là nơi quy tụ ý Đảng, lòng dân, trở thành sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng ta đã kiên trì, không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào để thương lượng, đàm phán, kể cả việc nhân nhượng vì “Chúng ta muốn hòa bình”. Với Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp ngày 6-3-1946, chúng ta đã nhượng bộ, từ yêu cầu Việt Nam độc lập hoàn toàn, thành Việt Nam chỉ còn là một "quốc gia tự do" nằm trong Liên hợp Pháp. Nhưng khi hiệp định chưa ráo mực, thực dân Pháp đã liên tiếp gây ra những vụ xung đột ở các địa phương và đẩy mạnh xâm lược từng vùng nước ta. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã sang thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách. Nhân chuyến đi này, Người đã có nhiều cuộc đàm phán, tiếp xúc với chính phủ Pháp nhằm cứu vãn hoà bình. Tạm ước 14-9-1946 là sự nhượng bộ cuối cùng nhằm duy trì hoà hoãn, tranh thủ đình chiến và trưng cầu dân ý ở Nam Bộ được ký kết giữa Chính phủ ta và chính quyền Đờ-Gôn tại Phông-te-nơ-brô nước Pháp với mong ước tiếp tục duy trì nền hoà bình ở Việt Nam. Như vậy, Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946 là những bước “Hòa” để “Tiến” quan trọng, là thời gian “Vàng” của Đảng ta nhằm chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến ác liệt mà dân tộc ta không thể tránh khỏi.
Sự nhân nhượng của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí hòa bình, cố gắng nhân nhượng đến mức có thể, nhằm đẩy lùi chiến tranh, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới! Mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của ta đều vô hiệu! Vì chúng dã tâm cướp muốn nước ta một lần nữa. Vì vậy, những lời kêu gọi hòa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã không được giới cầm quyền Pháp chấp nhận. Một lần nữa khẳng định, hòa bình không thể đến chỉ từ những nỗ lực của người Việt Nam. Ngọn lửa chiến tranh không thể dập tắt từ một phía. “Chúng ta muốn hòa bình”, nhưng không phải với bất cứ giá nào. Đối với bọn hiếu chiến, xâm lược phá hoại hòa bình của nước ta, nhân dân ta kiên quyết chống lại! Để có hòa bình, nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất, đứng lên kháng chiến, không còn con đường nào khác.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng “cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, đối phương chủ trương gây chiến. Không còn con đường nào khác, Người phải dùng chiến tranh chính nghĩa để chống lại chiến tranh phi nghĩa. Người không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược. “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Bằng chứng là, chúng thi hành chính sách thâm độc, tăng cường khiêu khích, lấn chiếm và đẩy ta vào tình thế việc đã rồi như: Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng TP. Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Quân đội Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội trong các ngày 15, 16-12-1946 như đốt nhà thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Ngày 17-12-1946, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, đặc biệt, chúng đã gây ra vụ tàn sát nhiều đồng bào ta ở phố Hàng Bún và Yên Ninh, gây xung đột đổ máu ở cầu Long Biên, khu Cửa Đông. Ngày 18-12-1946, tướng Moóc-li-e gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô ở Hà Nội cho chúng. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng! Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia bị vi phạm. Chúng ta không thể tiếp tục nhân nhượng, vì nhân nhượng lúc này sẽ dẫn đến họa mất nước, nhân dân Việt Nam sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. “Sẽ là một tội ác đối với lịch sử nếu chần chừ, do dự để quân dân Hà Nội và các thành phố khác trở thành nạn nhân của “kịch bản đảo chính quân sự” của quân đội Pháp sẽ diễn ra như chúng “đã diễn” ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Tình thế lịch sử buộc chúng ta phải cầm vũ khí đứng lên kháng chiến, bảo vệ chủ quyền đất nước!” (1).
Trước những tối hậu thư liên tiếp, mưu đồ và hành động chiến tranh xâm lược đã rõ ràng, không thể trì hoãn được nữa; Hồ Chủ tịch và Thường vụ Trung ương Đảng đã bàn bạc rất kỹ càng và thận trọng, quyết định chấp nhận hy sinh gian khổ, đưa cả dân tộc vào một cuộc kháng chiến trường kỳ đấu tranh giành độc lập, tự do và hòa bình. Ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng khẩn cấp tại Vạn Phúc, Hà Đông do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đã quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước. Tối 19-12-1946, Lời kêu gọi của Bác Hồ phát ra: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngưới già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân Pháp. Ai có súng cầm súng, ai có gươm cầm gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!” (2).
Nếu như ở bản Tuyên ngôn Độc lập viết tại số nhà 48 Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”, thì tại ngôi nhà ông Nguyễn Văn Du ở Vạn Phúc, Người đã khẳng định lại một lần nữa tư tưởng ấy bằng hành động cụ thể của cả dân tộc trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...” và Người cũng khẳng định lực lượng tham gia cuộc chiến đấu giành độc lập, hòa bình cho đất nước là “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Khát vọng hoà bình được thể hiện rõ ngay ở câu đầu tiên trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta muốn hòa bình”. Một lời kêu gọi cả dân tộc thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ, đầy máu lửa, nước mắt và hy sinh. Một cuộc kháng chiến trường kỳ lại bắt đầu bằng niềm mong ước hòa bình: “Chúng ta muốn hòa bình” nên phải tiến hành chiến tranh. Cái nghịch lý ấy, nghịch lý giữa mong muốn hòa bình mà phải bước vào chiến tranh tưởng chừng như không thể tồn tại được bên nhau, lại tồn tại giữa cảnh “đại bác vang trời, đầu rơi, máu đổ” ngay từ những giờ phút đầu tiên của một cuộc chiến ba ngàn ngày không nghỉ. Đó là một sự thực - một nền hòa bình đã được Đảng, Chính phủ, Hồ Chủ tịch và toàn dân ta cố công tìm kiếm, gìn giữ ngay từ những ngày đầu giành, giữ chính quyền, cho đến khi buộc phải lao vào một cuộc chiến tranh không mong muốn.
Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, ánh đèn trên các đường phố Hà Nội phụt tắt. Tiếp đó, tiếng súng pháo đài Láng, Xuân Canh… vang dậy khắp thành phố, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đồng thời sự kiện này đánh dấu ngày mở đầu của Hà Nội 60 ngày đêm khói lửa, giam chân địch trong lòng thành phố, ngăn chặn địch đánh bung ra các vùng lân cận, phá vòng vây của địch trong nội thành, bảo vệ cho Trung ương Đảng, Chính phủ và nhân dân Thủ đô sơ tán trở lại vùng tự do, căn cứ địa cách mạng an toàn, thực hiện sách lược “vườn không nhà trống”. “Thủ đô gió ngàn” Việt Bắc tiếp tục làm sứ mệnh lịch sử là hậu phương, căn cứ địa cách mạng, nơi tập trung cơ quan đầu não của Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam. Tại đây, bằng trí tuệ, bản lĩnh, sự sáng tạo của Đảng và Bác Hồ, quân và dân cả nước vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng, xây dựng hậu phương căn cứ địa vững chắc, thực hiện chính sách “thực túc binh cường, ăn no đánh thắng”, vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước - là cơ sở vững chắc để quân và dân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã được phát huy lên tầm cao mới sau 9 năm “Lời kêu gọi toàn quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát ra, nhân dân Việt Nam muôn người như một, chung sức đồng lòng, cùng nhau làm nên một Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, để rồi sau đó là đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn đất nước năm 1975, thu non sông về một mối, cả nước đi lên xây dựng CNXH.
65 năm đã trôi qua, lịch sử dân tộc đã sang trang, đất nước đang trên đường đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là “kim chỉ nam” cho Đảng ta. Ngày nay, trước những khó khăn chồng chất trước mắt, công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta vẫn tiếp tục khẳng định “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Việt Nam luôn thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình và ý chí giữ vững độc lập dân tộc trong đường lối, chính sách đối ngoại: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam
xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Chúng ta đã chủ động đẩy mạnh các quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực nhằm mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trên cơ sở các bên đều có lợi. Những nỗ lực của Việt Nam không chỉ được nhân dân các nước, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, cộng đồng trên thế giới hoan nghênh, ghi nhận mà ngay cả những chính phủ, gia đình và nhân dân những nước trước đây đã từng có thái độ thù địch, tham gia chiến tranh ở Việt Nam đánh giá cao. Bên cạnh đó, Việt Nam luôn sẵn sàng đấu tranh chống lại những thế lực, các hành động can thiệp vào độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới. Ý chí độc lập và khát vọng hoà bình của dân tộc Việt Nam trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã, đang được kế thừa, phát huy và cần nâng lên tầm cao mới trong sự nghiệp tiếp tục con đường cách mạng mà Người đã chọn, tiếp tục xây dựng đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
----------------
1- Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, tr. 48.
2- Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG - ST, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 480.
Ths. Nguyễn Văn Lan - Phạm Thị Nhung
Trường Sĩ quan Lục quân 2
Ảnh: Quốc Khánh