Thành ủy đã đổi tên Đảng bộ Khối Doanh nghiệp nhà nước thành Đảng bộ Khối Doanh nghiệp; chỉ đạo thành lập công đoàn các khu công nghiệp và chế xuất; củng cố Đoàn Thanh niên Khối Doanh nghiệp thành phố để có điều kiện chỉ đạo hoạt động của các TCĐ và đoàn thể trong DNTN. Thành ủy cũng đã thành lập đảng bộ cơ sở các khu công nghiệp.
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy và các đảng ủy trực thuộc, đến tháng 10-2009, toàn thành phố đã thành lập được 97 TCĐ ở 97/9.115 DNTN, gồm 30 đảng bộ cơ sở, 67 chi bộ cơ sở, với 2.784 đảng viên ở 8 công ty TNHH, 89 công ty cổ phần tư nhân và DNTN. Phần lớn TCĐ trong DNTN đã thực hiện cơ bản chức năng, nhiệm vụ theo quy định, phát huy được vai trò hạt nhân chính trị trong lãnh đạo người lao động, tuyên truyền, vận động chủ doanh nghiệp, các thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) và ban giám đốc chấp hành tốt đường lối của Đảng, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ trương của thành ủy, chính quyền thành phố; nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. TCĐ trong DNTN đã góp phần giáo dục, động viên đảng viên, công nhân, người lao động đoàn kết, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần vượt khó, chấp hành nghiêm các quy định của doanh nghiệp, phấn đấu thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh. Cấp ủy ở nhiều doanh nghiệp đã chủ động tham gia ý kiến với chủ doanh nghiệp, HĐQT trong xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Số đông đảng viên thể hiện rõ vai trò gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, trong nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để phản ánh với TCĐ, trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nói đi đôi với làm.
Kết quả phân tích chất lượng TCĐ và đảng viên hằng năm cho thấy: năm 2007, có 23 TCĐ đạt TSVM (51,1%) so với TCĐ tham gia đánh giá chất lượng; có 22 TCĐ hoàn thành nhiệm vụ (48,9%). Có 536 đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ (48%); 345 đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ (46,55%); 5 đảng viên vi phạm tư cách (0,67%).
Năm 2008, có 44 TCĐ đạt tiêu chuẩn TSVM (46,3%); 27 TCĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ (28,4%); 22 TCĐ hoàn thành nhiệm vụ (22,2%); 2 TCĐ yếu kém (2,1%); 2 TCĐ mới thành lập không xếp loại. Có 2.661/2.670 đảng viên tham gia đánh giá chất lượng, trong đó có 213 đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (8%); 1.686 đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ (63,3%); 743 đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ (27,9%); có 19 đảng viên vi phạm tư cách hoặc không hoàn thành nhiệm vụ, chiếm 0,7%.
Nhiệm vụ xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể quần chúng trong DNTN đã được các đảng bộ, chi bộ quan tâm. Hơn 10 năm qua, số lượng công đoàn cơ sở và đoàn viên trong các DNTN không ngừng tăng lên, từ 16 công đoàn cơ sở (1997) lên 144 (2008), với 20 ngàn đoàn viên. Các công đoàn cơ sở đã thể hiện được vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công nhân, người lao động trong DNTN. Tại một số doanh nghiệp có tổ chức công đoàn quy mô lớn, công đoàn cơ sở còn phối hợp với chủ doanh nghiệp tham gia việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, theo dõi vệ sinh an toàn lao động, đề xuất những biện pháp đổi mới cách thức quản lý và tổ chức sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động. Thực hiện sự chỉ đạo của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành Đoàn đã tiến hành nhiều biện pháp khắc phục tình trạng “trắng đoàn” ở các DNTN. Từ năm 2001 đến nay, đã thành lập được 24 cơ sở đoàn, 30 chi đoàn cơ sở với 2.886 đoàn viên. Hoạt động của Đoàn thanh niên ngày càng đa dạng, phong phú, đi vào thực chất, có hiệu quả.
Bên cạnh những ưu điểm, công tác phát triển đảng viên và TCĐ, nâng cao chất lượng các TCĐ trong DNTN ở TP. Đà Nẵng còn những hạn chế: Số TCĐ, đảng viên chiếm tỷ lệ rất thấp và phát triển chậm so với sự tăng nhanh của các doanh nghiệp. Chất lượng hoạt động của nhiều TCĐ còn hạn chế. Một số TCĐ chưa thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định, vai trò mờ nhạt. Nhiều cấp ủy, chi bộ chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng và nguyên tắc tổ chức của Đảng. Công tác quản lý đảng viên, việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên còn hạn chế. Công tác giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo, phát triển đảng viên chưa được quan tâm đúng mức. Việc xây dựng quy chế làm việc và thực hiện quy chế còn nhiều bất cập, một số cấp ủy chưa xây dựng được quy chế phối hợp hoạt động giữa cấp ủy với HĐQT, chủ doanh nghiệp. Một bộ phận công nhân, người lao động chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của TCĐ trong doanh nghiệp. Chất lượng hoạt động của các đoàn thể trong nhiều doanh nghiệp hạn chế…
Nguyên nhân do nhiều cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác này, thiếu quan tâm chỉ đạo thực hiện. Một số cấp ủy, TCĐ trong DNTN chưa thực sự nỗ lực khắc phục khó khăn, chưa chủ động, sáng tạo còn trông chờ, ỷ lại vào cấp trên. Đội ngũ bí thư chi bộ ít được đào tạo, bồi dưỡng nên trình độ, năng lực và kinh nghiệm công tác đảng còn hạn chế. Một số đảng viên chưa gương mẫu, chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của người đảng viên.
Công tác tuyên truyền, vận động đối với chủ doanh nghiệp còn hạn chế; nhiều chủ DNTN chỉ tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nên chưa quan tâm và tạo điều kiện cần thiết để TCĐ được hình thành, có những trường hợp còn gây khó khăn cho việc thành lập.
Một bộ phận công nhân, người lao động giác ngộ chính trị còn thấp, điều kiện kinh tế khó khăn nên ít có thời gian để tham gia các hoạt động văn hóa - xã hội, không thiết tha phấn đấu vào Đoàn, vào Đảng.
Để xây dựng được TCĐ trong DNTN ở TP. Đà Nẵng đạt kết quả tốt hơn, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với cấp ủy, chủ doanh nghiệp. Muốn vậy, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của Thành ủy, chính quyền thành phố. Đặc biệt quán triệt sâu sắc Chỉ thị 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), các quy định của Trung ương về những nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường công tác xây dựng đảng, đoàn thể trong các DNTN. Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức trong các cấp ủy, cán bộ, đảng viên, chủ doanh nghiệp và người lao động về vai trò của DNTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cần lựa chọn cách tuyên truyền, vận động, thuyết phục phù hợp để chủ doanh nghiệp, lực lượng lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp thấy được mục đích, lợi ích của việc thành lập TCĐ. Mặt khác, cần khen thưởng kịp thời những tập thể và cá nhân tích cực, tiêu biểu góp phần thực hiện tốt công tác này. Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông đại chúng trong thông tin đầy đủ, chính xách, kịp thời và sâu rộng về DNTN thực hiện tốt công tác này.
Thứ hai, củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng các TCĐ, đoàn thể trong DNTN. Rà soát, nắm chắc thực trạng tổ chức và hoạt động của TCĐ trong DNTN để có chủ trương, biện pháp sát hợp. Cấp ủy cấp trên cần có hướng dẫn chi tiết giúp cấp ủy, TCĐ trong DNTN thực hiện tốt quy định; thường xuyên kiểm tra, giám sát để nắm tình hình, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khắc phục những sai sót nếu có. Xây dựng và thực hiện đúng quy chế làm việc của cấp ủy; quy chế phối hợp giữa cấp ủy, bí thứ với chủ doanh nghiệp, HĐQT, giám đốc doanh nghiệp và các tổ chức đoàn thể phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng cấp ủy, bí thư đảng bộ, chi bộ trong doanh nghiệp. Lựa chọn đội ngũ bí thư có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn. Trong DNTN có TCĐ, nếu lãnh đạo doanh nghiệp là đảng viên nên bố trí đồng chí đó làm bí thư chi, đảng bộ để kết hợp công tác lãnh đạo của Đảng với công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp. Nếu DNTN có TCĐ, những lãnh đạo doanh nghiệp chưa phải là đảng viên cần lựa chọn đảng viên tiêu biểu, có trình độ, năng lực chuyên môn, có uy tín trong TCĐ và doanh nghiệp đảm nhiệm chức vụ bí thư.
Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách công tác đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ như lựa chọn những vấn đề trọng tâm và chuẩn bị kỹ nội dung của mỗi kỳ sinh hoạt, giữ nghiêm nền nếp sinh hoạt, ý thức tổ chức kỷ luật gắn với phát huy dân chủ trong sinh hoạt để đảng viên thảo luận, hiến kế xây dựng nghị quyết, chương trình công tác sát hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đặc biệt cần tổ chức thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với công việc cụ thể hằng ngày của đảng viên nhằm nâng cao hiệu quả công tác, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Cấp ủy tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được phân công và thường xuyên kiểm tra việc đảng viên thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, các cấp uỷ tiến hành rà soát số đảng viên đang làm việc tại các doanh nghiệp, những đảng viên làm việc theo hợp đồng lao động từ một năm trở lên để chuyển sinh hoạt đảng về TCĐ tại doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp có TCĐ) hoặc chuyển sinh hoạt đảng đến TCĐ phù hợp nơi làm việc (nếu doanh nghiệp chưa có TCĐ), không để đảng viên làm việc tại doanh nghiệp nhưng lại sinh hoạt đảng tại chi bộ nơi cư trú. Thực hiện nghiêm chỉnh Quy định số 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị “Về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”.
Kiện toàn nâng cao chất lượng các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp. Cần tiến hành khảo sát tình hình các đoàn thể chính trị - xã hội trong DNTN, đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ nguyên nhân để có giải pháp củng cố, nâng cao chất lượng. Các đoàn thể chính trị - xã hội phải xây dựng quy chế hoạt động và quy chế phối hợp giữa các đoàn thể với chủ doanh nghiệp, HĐQT, giám đốc doanh nghiệp. Nội dung hoạt động của các đoàn thể cần bám sát vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chương trình, kế hoạch hoạt động của đoàn thể cấp trên. Có chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ làm công tác đoàn thể trong doanh nghiệp. Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, hội viên nhằm tập hợp, đoàn kết họ vào tổ chức. Qua quá trình phấn đấu, rèn luyện, các đoàn thể lựa chọn những quần chúng ưu tú giới thiệu cho cấp ủy, chi bộ bồi dưỡng, thử thách và kết nạp vào Đảng. Đối với những doanh nghiệp chưa có tổ chức đoàn thể cần chỉ đạo làm tốt công tác chuẩn bị để sớm thành lập khi có đủ điều kiện, trước mắt tập trung vào những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Mặt khác, cần coi trọng việc tuyên truyền, thuyết phục chủ doanh nghiệp để tạo sự đồng tình, ủng hộ, nhất là để các đoàn thể hoạt động có hiệu quả sau khi được thành lập.
Thứ ba, tăng cường công tác phát triển đảng viên. Các đảng bộ, chi bộ phải coi công tác phát triển đảng viên là nhiệm vụ chính trị thường xuyên. Cần xây dựng nghị quyết chuyên đề về phát triển đảng viên, trong đó xác định rõ mục tiêu cụ thể, biện pháp thực hiện từng tháng, từng quý; đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nghị quyết để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điều chỉnh, bổ sung thiếu sót. Quán triệt và cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên đã được Điều lệ Đảng quy định cho phù hợp với từng đối tượng. Đảng bộ, chi bộ cần tích cực và chủ động tạo nguồn từ xa, từ sớm qua các phong trào tạo môi trường thuận lợi để quần chúng thể hiện phẩm chất và năng lực của mình. Từ các phong trào mà các đoàn thể lựa chọn những quần chúng ưu tú giới thiệu cho TCĐ tạo nguồn và xem xét kết nạp. Từng chi bộ kết hợp với các đoàn thể quần chúng để giới thiệu, lựa chọn danh sách tạo nguồn. Trong tạo nguồn cần chú ý những quần chúng trẻ, có trình độ học vấn cao, những người đang đảm nhiệm các chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, cán bộ đoàn thể… Chi bộ phân công giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi cấp ủy viên, đảng viên có uy tín, kinh nghiệm giúp đỡ, bồi dưỡng quần chúng ưu tú. Đảng viên được phân công nhiệm vụ cần thường xuyên gần gũi, nắm chắc động cơ, trình độ nhận thức, ý thức tổ chức kỷ luật, việc làm của quần chúng ưu tú; nhiệt tình giúp đỡ, động viên, nhắc nhở quần chúng phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, thiếu sót trong quá trình phấn đấu; định kỳ báo cáo với cấp uỷ về quá trình phấn đấu rèn luyện của quần chúng. Đổi mới phương pháp thẩm định động cơ của người vào Đảng. Lấy hiệu quả công tác trong thực tiễn của quần chúng làm thước đo sư phấn đấu, rèn luyện. Khi nhận xét, đánh giá quần chúng phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể. Cần xem xét sự phấn đấu của quần chúng trong một quá trình.
Thứ tư, tiến hành thành lập TCĐ trong các DNTN khi đã hội đủ các điều kiện. Việc thành lập TCĐ trong DNTN cần phải kết hợp chặt chẽ các biện pháp về tổ chức, tư tưởng và giải quyết đúng đắn quan hệ giữa cấp ủy có thẩm quyền với chủ doanh nghiệp. Đặc biệt phải coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, nhất thiết không xây dựng để cho có, không chạy theo số lượng, chỉ tiêu mà xem nhẹ chất lượng. Trước hết tập trung chỉ đạo thành lập TCĐ ở những doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn, sử dụng nhiều lao động, sản xuất kinh doanh ổn định và có chiều hướng phát triển, có vị trí quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; có ít nhất 3 đảng viên chính thức; được chủ doanh nghiệp đồng tình ủng hộ. Đối với doanh nghiệp có đủ số lượng đảng viên cần thiết để thành lập nhưng điều kiện hoạt động không thuận lợi thì TCĐ cấp trên cần cân nhắc kỹ. Đối với những doanh nghiệp chưa có đảng viên, cấp ủy cấp trên nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính phân công cấp ủy viên, đảng viên có kinh nghiệm, phối hợp với các đoàn thể trong doanh nghiệp phát hiện, bồi dưỡng tạo nguồn kết nạp đảng viên, khi có đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng thì thành lập TCĐ. Sau khi TCĐ đã được thành lập, cấp uỷ và chính quyền cấp trên nơi doanh nghiệp đóng trụ sở cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ, tạo điều kiện về mọi mặt, nhất là hướng dẫn về tổ chức hoạt động; xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; phương tiện, kinh phí, tạo vị thế chính trị cho TCĐ trong doanh nghiệp.
Thứ năm, định kỳ tổng kết rút kinh nghiệm về xây dựng TCĐ trong DNTN. Qua tổng kết thực tiễn, các cấp ủy, TCĐ rút ra kinh nghiệm để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển TCĐ trong DNTN đạt kết quả tốt hơn. Định kỳ 6 tháng, một năm, dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Đà Nẵng các cấp ủy tiến hành sơ, tổng kết rút kinh nghiệm. Trên cơ sở đó tiếp tục chỉ đạo công tác xây dựng đảng, đoàn thể trong các DNTN. Đồng thời phát hiện những nhân tố mới, điển hình tiêu biểu để động viên kịp thời và tuyên truyền rộng rãi, tạo sức thuyết phục và niềm tin đối với đảng viên, quần chúng và các chủ doanh nghiệp khác trên địa bàn thành phố. Từ đây phát hiện những vấn đề mới ở tầm vĩ mô đề xuất, kiến nghị Thành ủy, Trung ương tháo gỡ vướng mắc, điều chỉnh chủ trương, chính sách hợp lý, khoa học hơn.
ThS. Trần Văn Phương
Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III