Cải cách tiền lương và bảo hiểm xã hội: Cần mạnh mẽ và toàn diện

Trụ cột chính chưa bền vững

Bảo hiểm xã hội được coi là một trong những trụ cột chính của an sinh xã hội và vận hành theo nguyên tắc đóng - hưởng. Tuy nhiên, mức đóng - hưởng này ở nước ta đang có sự chênh lệch, khiến trụ cột chính của an sinh xã hội chưa bền vững.

Tăng trưởng chậm

Tại hội thảo quốc tế bàn về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam diễn ra cuối năm 2017, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến hệ thống chính sách an sinh xã hội, trong đó có BHXH. Trong những năm qua, chính sách BHXH ở Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn cải cách, phát triển. Luật BHXH được Quốc hội thông qua năm 2006 và tiếp tục hoàn thiện năm 2014 đã quy định đầy đủ về chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan. Người dân được tạo mọi điều kiện để tiếp cận, tham gia và thụ hưởng chính sách, nên số người tham gia BHXH tăng lên nhanh chóng.
 
Chi trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội tại xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây). Ảnh: Thái Hiền

Hiện tại, cả nước có khoảng 14,6 triệu người tham gia BHXH, chiếm hơn 30% lực lượng lao động trong độ tuổi. Mỗi năm, nước ta có từ 4 đến 5 triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn; khoảng 150 nghìn người hưởng mới các chế độ BHXH dài hạn; gần 3 triệu người cao tuổi hưởng lương hưu và BHXH hằng tháng. Nếu tính cả đối tượng hưởng trợ cấp xã hội cho người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, người có công thì 50% người cao tuổi ở Việt Nam được hưởng lương hưu và trợ cấp hằng tháng.

Mặc dù đạt kết quả đáng ghi nhận, song những tồn tại của chính sách BHXH trong thời gian qua vẫn chưa khắc phục triệt để. Đó là nguy cơ mất cân đối Quỹ Hưu trí và tử tuất trong dài hạn; tỷ lệ người tham gia thấp, diện bao phủ BHXH còn ít. Các chế độ BHXH chưa đa dạng, linh hoạt nên thiếu hấp dẫn; hồ sơ, thủ tục còn rườm rà,… Có thể nói, tốc độ tăng trưởng BHXH ở nước ta khá chậm, khó đạt mục tiêu thu hút 50% lao động trong độ tuổi tham gia BHXH vào năm 2020.

Ông Phạm Trường Giang, Vụ trưởng Vụ BHXH (Bộ LĐ-TB&XH) dẫn chứng: Nước ta còn gần 39 triệu người chưa tham gia BHXH, tương đương gần 70% lực lượng lao động trong độ tuổi. Với tốc độ tăng trưởng đó, dự báo đến năm 2050, số người tham gia BHXH đạt khoảng 27 triệu người, bằng 42% lực lượng lao động trong độ tuổi. Số người hưởng lương hưu từ Quỹ Hưu trí sẽ tăng từ hơn 2,2 triệu người hiện nay, lên 10,6 triệu người vào năm 2050, bằng 34,1% số người sau tuổi nghỉ hưu. Trong khi đó, khoảng cách chênh lệch giữa thời gian đóng, mức đóng BHXH so với thời gian hưởng và mức thụ hưởng ngày càng giãn rộng. Tính trung bình, thời gian hưởng lương hưu của người lao động là 24,7 năm, trong khi mức đóng, thời gian đóng BHXH như hiện nay mới đủ chi trả lương hưu cho họ trong 8 năm.

Đáng lo hơn, tỷ lệ người đóng BHXH trên số người hưởng ngày càng có xu hướng giảm nhanh. “Năm 1996, trung bình có 217 người đóng cho 1 người hưởng, đến nay, con số này chỉ còn khoảng 8 người đóng cho 1 người hưởng” - ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho biết.

Theo ông Nuno Cunha, chuyên gia cao cấp về an sinh xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra nhanh, tốc độ tăng trưởng BHXH chậm, Việt Nam cần điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nhất là chính sách BHXH nhanh chóng, dứt khoát và phù hợp.

Chia sẻ giữa các nhóm đối tượng

Khẳng định lực lượng lao động đang làm việc chưa tham gia BHXH nhiều hơn số người đã, đang tham gia, ông Chang-Hee Lee, Giám đốc Văn phòng ILO tại Hà Nội khuyến nghị, Việt Nam nên mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Ngoài ra, nên xây dựng hệ thống BHXH đa tầng thay mô hình đơn tầng hiện nay; đồng thời, điều chỉnh thời gian tối thiểu để được hưởng lương hưu; điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu một số nhóm đối tượng. Chính sách BHXH cần thiết kế mức đóng - hưởng phù hợp, hướng tới việc mở rộng diện bao phủ tương tự như bảo hiểm y tế.

Đại diện người lao động, ông Lê Đình Quảng, Phó Trưởng ban Quan hệ lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) kiến nghị, các cơ quan chức năng quan tâm cải cách chính sách BHXH song song, lồng ghép với chính sách lao động, việc làm; ưu tiên cải cách bộ máy quản lý và tách bạch quyền lợi, nghĩa vụ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Cụ thể, BHXH nên có hai tài khoản, một dành cho người lao động, một dành cho người sử dụng lao động. Mức độ đóng - hưởng phải minh bạch, tạo động lực cho các bên cùng cố gắng.

Còn ông Nguyễn Văn Định, Trưởng khoa BHXH, Trường Đại học Kinh tế quốc dân phân tích: Đa số người dân, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa hiểu hết tính ưu việt của BHXH, nên chưa chủ động tham gia. Vì thế, BHXH cần có đội ngũ chuyên viên tư vấn đến từng người dân; mở rộng hệ thống đại lý đến cấp cơ sở. Ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng, cùng với việc điều chỉnh chính sách, Nhà nước cần hỗ trợ mọi người đến tuổi lao động được tham gia hệ thống BHXH từ nguồn phúc lợi chung. Đối tượng hỗ trợ gồm tất cả lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp và khu vực phi chính thức như trách nhiệm xã hội mà các doanh nghiệp đang đóng thay cho người lao động 14%, để mọi người đều có lương hưu, thấp nhất cũng ở mức sàn tối thiểu.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nước ta có khoảng 18 triệu lao động làm việc ở khu vực phi chính thức và 76,7% số lao động phi chính thức làm việc không có hợp đồng lao động bằng văn bản, không tham gia BHXH, bảo hiểm y tế, không hưởng lương cố định. Con số này cho thấy, việc cải cách chính sách BHXH là nhiệm vụ không thể trì hoãn, nhưng cần thực hiện thận trọng, tôn trọng quy luật khách quan, hướng tới sự chia sẻ giữa các nhóm đối tượng.
Những năm gần đây, chính sách ưu đãi người có công liên tục được bổ sung, hoàn thiện, góp phần bảo đảm cho người có công và gia đình họ có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của xã hội. Việc cải cách chính sách ưu đãi người có công cơ bản hoàn thành mục tiêu đề ra, nhưng thực tế lại xuất hiện những vấn đề mới, nhiệm vụ mới cần quan tâm giải quyết.

Quan tâm, chăm lo thường xuyên

Ông Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) khẳng định, chính sách, pháp luật về ưu đãi người có công luôn được quan tâm, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện. Đến nay, cả nước đã xác nhận các đối tượng người có công với hơn 9 triệu người, trong đó có 1,2 triệu liệt sĩ, 127.000 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 800.000 thương binh, bệnh binh,...
 
Người có công ở Hà Nội thường xuyên được khám bệnh, cấp, phát thuốc miễn phí.

“100% người có công đã được đón nhận sự quan tâm, chăm lo thường xuyên từ các cấp, các ngành chức năng và cộng đồng xã hội. Đại đa số họ và gia đình họ có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú” - ông Đào Ngọc Lợi, Cục trưởng Cục Người có công (Bộ LĐ-TB&XH) cho hay.

Thực hiện nhiệm vụ “Không để bất cứ người có công nào không được hưởng chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước, sự chăm sóc của nhân dân”, từ năm 2016 đến nay, Bộ LĐ-TB&XH đã phối hợp với các địa phương rà soát hồ sơ tồn đọng và thí điểm giải quyết tại các tỉnh: Lai Châu, Bắc Kạn, Thái Bình, Long An và TP Đà Nẵng. Với nhiều biện pháp linh hoạt, các cơ quan chức năng đã xác nhận thêm hàng nghìn trường hợp người có công.

Nhờ sự quan tâm, giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách, đến nay, TP Hà Nội cơ bản không còn hồ sơ đề nghị xác nhận người có công tồn đọng, không còn những vụ việc khiếu nại phức tạp liên quan đến chính sách ưu đãi người có công. Một số hồ sơ đề nghị xác nhận liệt sĩ tưởng chừng không có hướng giải quyết, thì đã được giải quyết thấu đáo. Ông Trần Văn Tính, trú tại xã Tiến Thịnh (huyện Mê Linh) cho biết, người thân của gia đình ông là cụ Trần Văn Ngóc, sinh năm 1928, tham gia cách mạng từ năm 1945, thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở kháng chiến, bám đất, giữ làng. Bị địch phát hiện, bắt giữ, đánh đập dã man, cụ Ngóc hy sinh tháng 12-1950. “Năm 2017, gia đình tôi cùng các cơ quan chức năng thu thập thông tin, tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau, xin ý kiến công khai và trình các cơ quan chức năng xem xét, phê duyệt. Sau bao năm chờ đợi, hồ sơ đề nghị xác nhận liệt sĩ đối với cụ Trần Văn Ngóc đã được giải quyết” - ông Trần Văn Tính thông báo.

Không những vậy, chế độ ưu đãi người có công cũng được bổ sung, mở rộng. Điển hình là chế độ trợ cấp người phục vụ Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống tại gia đình; chế độ trợ cấp người phục vụ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên sống tại gia đình; chế độ thờ cúng liệt sĩ,… Đặc biệt, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” phát triển sôi nổi, rộng khắp trong cả nước. Chỉ tính riêng giai đoạn 2007-2017, Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của trung ương và các địa phương đã vận động được gần 6.000 tỷ đồng, hỗ trợ hàng triệu lượt gia đình người có công xây dựng, sửa chữa nhà ở, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,...

Mở rộng đối tượng

Không thể phủ nhận điểm tiến bộ, tính ưu việt từ việc cải cách chính sách ưu đãi người có công trong thời gian qua, song quá trình triển khai còn bất cập, hạn chế. Chính sách chưa có chế độ ưu đãi với người tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, người bị bắt tù đày sau ngày 30-4-1975; vợ hoặc chồng liệt sĩ đã lấy chồng hoặc vợ khác. Thân nhân cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa còn sống chưa được hưởng chế độ bảo hiểm y tế, trong khi thân nhân thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên còn sống lại được hưởng chế độ này.

Căn cứ, điều kiện để xác nhận thương binh, liệt sĩ theo quy định hiện hành có một số điểm chưa phù hợp. Chẳng hạn, Nghị định 31/2013/NĐ-CP ngày 9-4-2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công sửa đổi năm 2012, ghi rõ: “Đối tượng được xem xét xác nhận thương binh, liệt sĩ khi “trực tiếp tham gia đấu tranh chống lại hoặc ngăn chặn các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thuộc các tội được quy định trong Bộ luật Hình sự”. Theo đó, trong khi làm nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ phải trực tiếp tham gia truy bắt, bắt giữ, ngăn chặn hành vi phạm tội đang xảy ra mà bị thương, hy sinh mới được xác nhận là thương binh, liệt sĩ. “Quá trình đấu tranh chống tội phạm phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, chiếu theo quy định này, một số trường hợp sẽ không được hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi với người có công” - Thượng tướng Nguyễn Văn Thành, Thứ trưởng Bộ Công an phản ánh.

Ngoài ra, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính lĩnh vực người có công có điểm chưa rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình cải cách thủ tục hành chính, làm chậm thời gian giải quyết với một số nhóm đối tượng. Nhiều quy định trong lĩnh vực người có công cũng bộc lộ sự cứng nhắc, chồng chéo, khó triển khai,…

Để lấp đầy những khoảng trống nêu trên, chính sách ưu đãi người có công nên điều chỉnh chế độ trợ cấp với nhóm đối tượng là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; bổ sung chế độ trợ cấp một lần với thân nhân Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động và một số đối tượng khác. Do đó, chính sách ưu đãi người có công cũng phải có cuộc cải cách toàn diện, hiệu quả hơn.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất