I. Điều kiện, hoàn cảnh mới.
|
Đồng chí Nguyễn Thuý Hoàn
Ảnh: Nam Vũ
|
1. Toàn cầu hoá sâu rộng, hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh, trở thành một quyền lực đầy sức mạnh, tính cạnh tranh giữa các loại hình báo chí ngày càng gay gắt.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự khai thác những tiềm năng cực lớn của bộ não con người. Với việc đan dệt những sợi dây trí tuệ từ kính và sóng radio, loài người bắt đầu nối kết tất cả các khu vực, tất cả các quá trình, tất cả các khái niệm thành một hệ thống Internet khổng lồ. Từ nền tảng mạng lưới trí tuệ đã ra đời một nền tảng hợp tác mới cho nền văn minh mới không còn trong phạm vi một quốc gia, một châu lục mà ở phạm vi toàn cầu.
Truyền thông có diện mạo mới: Bên cạnh những nỗ lực tìm lấy chỗ đứng xứng đáng của các tổ chức báo chí nước ta, diện mạo của truyền thông đang thay đổi trong một thế giới biến đổi nhanh nhờ Internet và các tiến bộ mau chóng kế tiếp nhau trong lĩnh vực truyền thông. Chưa bao giờ người Việt Nam có dịp tiếp cận với truyền thanh, truyền hình quốc tế, cổ điển và ảo nhiều như hiện nay. Mạng Internet, blog cá nhân, các diễn đàn tự do trên mạng có thể tạo nên những sóng ngầm dữ dội, sức mạnh phản biện của chúng rất lớn khi tỷ lệ cư dân Việt Nam quen với mạng Internet ngày càng cao. Không quốc gia nào dám bảo đảm giữ được bí mật về bất kỳ vấn đề gì. Với mạng internet toàn cầu thì sự bưng bít thông tin là chuyện không thể. Có khi, chính sự bưng bít ấy lại gợi thêm sự tò mò dẫn người đọc tự tìm lấy thông tin cho mình qua mạng.
Chưa bao giờ các loại hình báo chí lại phong phú như ngày nay: Từ chỗ chỉ có báo in, báo hình, báo nói đến nay có thêm báo chí điện tử, các mạng xã hội trong ngoài, nước, blog cá nhân. Nhiều cơ quan báo chí từ chỗ chỉ có một ấn phẩm đến nay xuất bản cùng lúc nhiều ấn phẩm Một cơ quan báo chí cùng lúc có báo in, báo điện tử và phát thanh-truyền hình không còn là hiếm.
Từ truyền tin một chiều, báo chí đã trở thành một ngành dịch vụ thỏa cơn khát thông tin đa dạng của hàng triệu khách hàng. Hơn thế nữa, báo chí còn là kênh dẫn chính quyền đối thoại với người dân, là dung môi nơi doanh nghiệp đối thoại với người tiêu dùng. Như dòng thác dư luận, báo chí đã trở thành một quyền lực đầy sức mạnh trong xã hội đương đại.
2. Là thời kỳ biến đổi nhiều quan điểm, cách nhìn, giá trị sống.
Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo cũng là quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập kinh tế thế giới, toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng. Trong quá trình đó, nhiều quan điểm, cách nhìn, giá trị đã dần thay đổi. Ví như trước đây chỉ riêng từ “kinh tế thị trường” nếu ai nói đến đã được xem như có vấn đề về lập trường tư tưởng thì ngày nay không những sử dụng thường xuyên mà nước ta còn đề nghị các nước khác trên thế giới công nhận nước ta là nước có nền kinh tế thị trường. Trước đây những người làm nghề buôn bán thường được gọi một cách miệt thị là “dân phe phẩy” thì nay được gọi là doanh nhân và có hẳn ngày tôn vinh chẳng khác gì ngày Nhà giáo, Nhà báo, Thầy thuốc. Trước đây nghèo được tôn vinh, nay thì giàu không chỉ được tôn vinh mà còn trở thành “khát vọng”...
Có thể thấy, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang diễn ra được tác động của nhiều nhân tố, nhưng có ba nhân tố cơ bản nhất đang tác động, quy định chiều hướng vận động, biến đổi xã hội nói chung, các giá trị, quan điểm, cách nhìn và chuẩn mực đạo đức nói riêng là kinh tế thị trường, tiến bộ khoa học-công nghệ, hội nhập và giao lưu văn hoá. Ngày nay, không thể nói đến phát triển, hiện đại hoá xã hội nếu không đẩy nhanh những nghiên cứu và áp dụng các thành tựu, tiến bộ công nghệ trong sản xuất cũng như trong mọi lĩnh vực của đời sống, mở cửa hội nhập và giao lưu văn hoá. Quá trình này tất dẫn đến những biến đổi giá trị, quan điểm, cách nhìn trong cuộc sống.
|
Hai nữ Phó tổng biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng và Tạp chí Kosang Phak
Ảnh: Xuân Sơn
|
Những yêu cầu của kinh tế thị trường trong mối liên hệ với các giá trị, quan điểm, cách nhìn sẽ cho thấy những hạn chế, những bất cập trước đây. Chẳng hạn, dưới tác động của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, kinh tế thị trường đòi hỏi tính tích cực năng động, tính thực tế, tính hiệu quả của các hoạt trong xã hội. Bởi vậy, việc coi nhẹ các giá trị vật chất, coi trọng động cơ và coi nhẹ hiệu quả của hoạt động, tính duy cảm, thiếu nguyên tắc trong giải quyết các quan hệ xã hội... với tư cách là các giá trị, các chuẩn mực đạo đức truyền thống trở nên bất cập trong điều kiện hiện nay. Chúng cần được khắc phục trong sự xác lập nội dung của hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Đồng thời, những yêu cầu của kinh tế thị trường lại đòi hỏi con người phải coi trọng cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần, cả giá trị cá nhân lẫn giá trị xã hội, đòi hỏi những ứng xử đạo đức được thực hiện bởi những chủ thể có sự phát triển nhân cách độc lập, có ý thức về sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ công dân. Chính những đòi hỏi mang tính quy luật đó của kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu bổ sung vào hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội những giá trị và chuẩn mực mới.
Kinh tế thị trường đòi hỏi và tạo điều kiện cho việc thúc đẩy những nghiên cứu sáng tạo, chuyển giao, áp dụng công nghệ trong sản xuất và trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Công nghệ, như cách hiểu hiện nay, không chỉ là các phương tiện vật chất, thiết bị kỹ thuật và gắn liền với chúng là phương thức, quy trình vận hành, mà còn bao hàm những yêu cầu tương ứng về tổ chức, thiết chế quản lý, điều phối, tiếp thị và sau cùng là con người với kỹ năng, năng lực vận hành công nghệ. Tất cả những thành tố của công nghệ, bằng cách này, cách khác đều đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí của con người. Lý trí, sự hiểu biết không chỉ là điều kiện cho hoạt động vận hành công nghệ, mà sự phát triển của nó còn tạo ra cơ sở tâm lý thuận lợi cho sự phát triển đạo đức nói chung, quan niệm về giá trị đạo đức nói riêng của con người. Sự phát triển của lý trí, hàm lượng tri thức được thể hiện trong lao động, sản xuất và các hoạt động xã hội trở thành một trong những thước đo giá trị nhân cách trong điều kiện hiện đại. Trong trường hợp này, tiến bộ công nghệ vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho sự kế thừa truyền thống đạo đức hiếu học, lại vừa đòi hỏi đổi mới và nâng cấp truyền thống đó. Điều đó có nghĩa là, trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, hiếu học với tư cách giá trị đạo đức phải có một vị trí thích đáng, đồng thời, hiếu học không chỉ là học cách làm người, mà còn là học cách làm việc, tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, kinh tế tri thức.
Tuy vậy, mối liên hệ giữa các nhân tố cơ bản của quá trình hiện đại hoá với sự biến đổi hệ giá trị, quan điểm, cách nhìn và chuẩn mực đạo đức không chỉ biểu hiện theo chiều thuận, mà còn biểu hiện theo chiều nghịch. Nói cụ thể hơn, kinh tế thị trường, tiến bộ công nghệ và giao lưu văn hoá không chỉ đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, mà còn tác động tiêu cực đến chính quá trình này. Kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cạnh tranh dựa trên sự thừa nhận và khuyến khích lợi ích cá nhân. Đồng thời, kinh tế thị trường cũng giả định một nền pháp chế tương ứng để đảm bảo cho nó vận hành một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, con người trong các quan hệ thị trường là con người kinh tế, mà con người kinh tế thì đặt lợi ích lên trên hết. Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường có cội nguồn sâu xa từ đây. Chủ nghĩa cá nhân với tư cách một giá trị, một định hướng sống không duy nhất là sản phẩm của kinh tế thị trường, nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường, với việc khuyến khích lợi ích cá nhân, nó thực sự có điều kiện để phát triển. Việc giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chỉ có thể được thực hiện triệt để thông qua sự kết hợp các giải pháp về luật pháp, chính sách kinh tế với các giải pháp về giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Tiến bộ công nghệ trong khi tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí, trí tuệ, nghĩa là tạo cơ sở tâm lý thuận lợi cho đạo đức và phát triển năng lực thực hiện sự định hướng giá trị đạo đức, cũng đồng thời tạo ra sự phát triển thiên lệch của lý trí trong cấu trúc nhân cách con người. Điều đó cản trở sự phát triển tình cảm, đạo đức. Sự suy giảm mối quan tâm giữa con người với con người, tính ích kỷ là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức hiện nay không chỉ có mối liên hệ với cơ chế thị trường, mà còn bị quy định bởi chính sự đề cao về mặt giá trị, sự lấn át trong thực tế của yếu tố lý trí, trí tuệ so với yếu tố tình cảm trong cấu trúc nhân cách con người. Chính điều đó là một trong những tác nhân dẫn tới những nghịch lý của thời đại ngày nay trong sự lựa chọn giá trị. Về những nghịch lý trong xã hội hiện đại, một tác giả vô danh trên Internet đã nhận xét: “Chúng ta có những toà nhà cao hơn nhưng tính cách lại nhỏ hơn, những đường cao tốc dài rộng hơn nhưng quan điểm hẹp hòi hơn, mua nhiều hơn mà vẫn thấy có ít hơn, có căn nhà to hơn nhưng gia đình lại nhỏ đi, cuộc sống kéo dài hơn nhưng lúc nào cũng không có thời gian, kiến thức nhiều hơn nhưng đầu óc lại cực đoan, y tế tốt hơn nhưng lại lắm đại dịch, tăng số của cải nhưng giá trị của mình lại giảm xuống, đi lên đến tận mặt trăng nhưng ngại gặp hàng xóm bên kia đường, thích hoạt động cộng đồng nhưng lại quên đi người thân đang ốm”. Đó là biểu hiện của tính ích kỷ, của sự vô cảm của con người trong điều kiện trí tuệ được đẩy lên đến mức che lấp, lấn át tình cảm. Con người chỉ biết khẳng định, chiếm lĩnh mà quên đi sự quan tâm đồng cảm, chia sẻ với nhau.
3. Trình độ dân trí nước ta ngày càng phát triển và yêu cầu của nhân dân với Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng cao.
Dân trí là trình độ hiểu biết của nhân dân. Dân trí gắn liền với sự phát triển kinh tế-xã hội. Giá trị của dân trí không phải chỉ giới hạn ở trình độ học vấn hay lượng thông tin người dân nhận được, mà còn ở mức độ quan tâm của người dân trước các vấn đề chính trị-xã hội, mức độ dấn thân, muốn làm, dám làm, khả năng hành xử có trách nhiệm của mình một cách có hiệu quả.
Dân trí nước ta ngày càng cao, người dân quan tâm đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, những nhiệm vụ trung tâm của đất nước trong mỗi thời kỳ. Những sai lầm, thiếu sót của các tổ chức đảng, tiêu cực của cán bộ, đảng viên được nhân dân nhận biết nhanh và tác động mạnh, suy giảm nhanh tình cảm, niềm tin của dân với Đảng. Làm cho dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh là vấn đề gắn chặt với xây dựng Đảng được mọi người dân quan tâm bởi nó động chạm đến quyền lợi, mong muốn của từng người.
4. Yêu cầu mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Dân chủ là một chế độ trong đó công dân thực sự có quyền chỉ trích, chất vấn trực tiếp và tự do với những người nắm quyền trong thực tế. Dân chủ là quyền của mọi người được tham gia và bàn bạc công việc của Đảng. Chính đó là nền tảng của dân chủ: tất cả mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến của mình và tất cả đều bình đẳng với tư cách công dân. Một xã hội dân chủ lành mạnh không phải là một đấu trường cho các cá nhân theo đuổi các mục đích của cá nhân họ. Dân chủ sẽ chỉ được thực hiện khi dân chủ là mong muốn của các công dân quyết tâm sử dụng quyền tự do mà bao thế hệ hy sinh xương máu mới giành được để tham gia vào đời sống của xã hội - góp tiếng nói xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, tham gia quản lý xã hội.
|
Giới thiệu ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Toà soạn với cán bộ, phóng viên Tạp chí Kosang Phak
Ảnh: Xuân Sơn
|
Tuy nhiên, trong xã hội ta vẫn chưa có đầy đủ điều kiện để phát triển hoàn thiện dân chủ khi kinh tế thị trường, chế độ pháp quyền mới hình thành, còn nhiều bất cập và trình độ dân trí có phát triển hơn trước nhưng chưa cao, xã hội dân sự chưa thật sự hình thành đúng nghĩa và phát huy vai trò của nó. Từ đó không chỉ thể chế kiềm chế quyền lực, chống lạm dụng quyền lực, tha hóa quyền lực, vi phạm dân chủ trong hệ thống các cơ quan đảng, nhà nước mà cả thể chế và hoạt động trong công tác giám sát và phản biện xã hội còn yếu kém, lúng túng. Cho nên không chỉ tồn tại dân chủ hình thức và vi phạm dân chủ mà dân chủ chưa được mở rộng, chưa có đủ những thể chế, cơ chế thực hiện dân chủ thật sự, có hiệu quả. Cơ chế phản biện xã hội, giám sát xã hội chưa đầy đủ. Đến nay vẫn chưa có luật về trưng cầu dân ý, quyền lực xã hội dân sự chưa hình thành minh bạch và có cơ sở pháp lý. Luật về hội quần chúng đã dự thảo mà vẫn chưa được thông qua và ban hành. Cơ chế dân chủ trong hoạt động lý luận và khoa học xã hội dự thảo hàng chục năm chưa thông qua được.
Dân chủ trong Đảng, nhất là qua hình thức sinh hoạt định kỳ và đại hội, ứng cử và đề cử trong công tác cán bộ tuy có khá hơn, dân chủ rộng rãi hơn trước nhiều nhưng vẫn còn hạn chế, hạn hẹp, còn khép kín, nặng dân chủ hình thức, thiếu công khai, minh bạch.
Nghĩa là, do hạn chế khách quan và sai lầm, thiếu sót chủ quan cũng như do “lỗi hệ thống” tạo nên mà dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội ở nước ta chưa cao, dân chủ chưa rộng rãi, chưa có chiều sâu, lạc hậu về thể chế, thiếu thể chế có hiệu lực. Từ đó, quyền dân chủ, lợi ích chính đáng của ngưới dân, đảng viên còn bị xâm phạm với các mức độ khác nhau và yêu cầu mở rộng, thực hành dân chủ ngày càng trở nên bức xúc.
5. Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng.
Là thời gian “nhạy cảm”, phải tiến hành nhiều công việc quan trọng liên quan trực tiếp đến mỗi đảng viên, người dân. Nhiều vấn đề lớn của Đảng, của đất nước được đưa ra mổ xẻ, phân tích, kết luận định hướng cho 5 năm - một chặng đường phát triển của đất nước. Tạp chí phân tích chân thực các vấn đề và quan điểm lớn về tổ chức xây dựng đảng, đồng thời phản ảnh đầy đủ thực tiễn với các chiều hướng đa dạng của nó, không né tránh các vấn đề phức tạp, không bỏ qua hoặc giấu giếm những mặt trái. Trong thời gian đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng, Tạp chí sẽ là diễn đàn mở về công tác tổ chức - cán bộ cho cả trong và ngoài ngành, không chỉ dành cho cán bộ, đảng viên mà tất cả độc giả, những người không phải là đảng viên với nhiều ý kiến đa chiều với tinh thần xây dựng.
6. Các chính đảng trên thế giới điều chỉnh xây dựng đảng phù hợp điều kiện mới.
Xu hướng điều chỉnh phát triển chung là: Đổi mới tư duy, quan điểm của hệ tư tưởng, nắm bắt sự vận động của xã hội nhằm mở rộng cơ sở xã hội của Đảng. Điều chỉnh thành phần đảng viên, thu hút lực lượng từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, mở rộng cơ sở quần chúng. Nhiều chính đảng chuyển từ đảng giai cấp sang đảng toàn dân hoặc đảng nhân dân. Tăng cường kết nạp các đại biểu của giới chủ doanh nghiệp. Tăng cường lực hấp dẫn của Đảng bằng cách mở rộng dân chủ, cải thiện hình ảnh, bằng các kênh: Mở rộng dân chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp, đối thoại, diễn đàn. Phân quyền, đổi mới cơ cấu tổ chức, tăng cường sức quy tụ và sức chiến đấu của đảng. Đổi mới phương thức vận hành và cơ chế tổ chức, tăng cường liên hệ và tác động qua lại với các phương tiện thông tin đại chúng.
II. Yêu cầu mới.
Trước khi nói tới yêu cầu mới cần khẳng định những yêu cầu để nâng cao tính định hướng, tính hấp dẫn xưa nay của Tạp chí như: chính xác, chân thực, đúng đắn, kịp thời, ngắn gọn, cụ thể, tính chiến đấu cao... vẫn là những yêu cầu không thể thiếu. Tuy nhiên, điều kiện, hoàn cảnh mới như đã phân tích ở trên đặt ra thêm những yêu cầu mới đối với việc nâng cao tính định hướng và hấp dẫn của Tạp chí.
Yêu cầu mới là điều Tạp chí cần phải đạt được, thích hợp với thời đại liên tục biến đổi, với xu hướng tiến bộ đáp ứng yêu cầu bạn đọc. Đó là:
1. Tăng tính phản biện, mở, đa chiều, có chính kiến.
Phản biện là một hành vi xác định tính đúng, sai hoạt động của con người, tổ chức. Tính hấp dẫn, định hướng của Tạp chí thể hiện ở nơi phát hiện và phản biện, khẳng định đúng, sai của những quyết định, hành vi của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Phản biện là một nhân tố không thể thiếu được của sự phát triển. Không phản biện sẽ khó thực hiện dân chủ. Không có dân chủ khó đoàn kết trong Đảng, đại đoàn kết dân tộc và đồng thuận xã hội.
Tạp chí tăng tính phản biện sẽ góp phần tạo môi trường cho phản biện phát triển như một hoạt động phê bình, tự phê bình có chất lượng khoa học, tạo ra được động lực thường xuyên cho sự phát triển trong Đảng và trong xã hội. Cần phản biện bởi Đảng hoạt động và phát triển không chỉ bởi những người đúng, mà còn bởi những người có khả năng thuyết phục người khác rằng mình đúng. Nhưng con người khi đã có quyền lực, khi nắm quyền lực trong tay thường dễ nảy sinh ra một thói quen khó khắc phục là không muốn nghe những lời trái ý mình, không muốn chia sẻ quyền lực. Đó là một thói quen khó bỏ. Phản biện góp phần loại bỏ khó khăn đó và đây thực sự là cuộc chiến lâu dài, khó khăn. Tạp chí phải có đóng góp trong cuộc chiến lâu dài đó nhằm chống lại những gì đã cũ kỹ hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Thực hiện tốt phản biện, phê phán cái sai và bảo vệ cái đúng, phát hiện cái mới, cái sai bị loại bỏ để cho cái đúng được tiếp tục phát triển.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mọi chương trình kế hoạch không thể luôn luôn đúng. Nếu không thường xuyên bám sát cuộc sống, nương theo sự vận động, biến đổi và phát triển của cuộc sống để kịp thời điều chỉnh, sửa sai thì không thể tránh khỏi những thất bại. Những thông tin phản hồi từ nhiều nguồn, chủ yếu là từ dưới lên, sẽ là tiền đề không thay thế được của sự điều chỉnh, sửa sai ấy. Tạp chí với chức năng vốn có của mình thực hiện công việc đầy thách thức này.
Cùng với việc chuyển tải những chủ trương đường lối đến với mọi người, những thông điệp từ trên xuống, Tạp chí thực hiện chức năng chuyển tải những thông tin phản hồi từ dưới lên để góp phần quan trọng vào sự điều chỉnh và sửa sai ấy.
2. Bám sát cuộc sống, phản ánh trung thực nguyện vọng cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Dưới tác động của cuộc cách mạng thông tin và mạng internet, ở mọi nơi, các hệ thống thứ bậc đang bị thách thức từ bên dưới và phải tự biến đổi thành các cấu trúc theo chiều ngang và có tính cộng tác hơn. Bởi vậy, trong thời đại hiện nay, hơn bao giờ hết, Tạp chí có điều kiện thực hiện sứ mệnh cao quý của mình theo khát vọng của C. Mác báo chí “là cái thế giới ý tưởng không ngừng trào ra từ thực tế hiện thực, lại chảy trở về hiện thực như một dòng thác đầy sinh khí”. Chỉ có thể hấp dẫn, đúng định hướng khi Tạp chí sống trong dòng chảy cuộc sống của cán bộ, đảng viên, nhân dân và chia sẻ niềm hy vọng, nỗi lo lắng, niềm vui và nỗi buồn của họ, dũng cảm phản biện bảo vệ cái đúng, chống lại cái sai. Chỉ có điều, dòng chảy của cuộc sống miệt mài không một phút giây ngừng nghỉ không phải lúc nào cũng theo trình tự, mà luôn nảy sinh những nhân tố mới, những tương tác mới, tạo ra khả năng hình thành những hợp trội không dự báo trước được.
Tạp chí cần thực hiện một cách xuất sắc nhiệm vụ chuyển tải ý chí, nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân, phấn đấu quyết liệt để có thể “là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân” như C.Mác đã yêu cầu. Chỉ có thể trở thành “con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân” khi các phóng viên, biên tập viên tắm mình trong dòng sông cuộc sống, trong sự kiện chứ không phải là những bản sao lười nhác báo cáo nhận từ trên xuống, dưới lên, từ những kiến thức kinh điển có nhiều điều đã không còn phù hợp với cuộc sống của đất nước, dân tộc; khi mỗi phóng viên, biên tập viên chân chính nhận thức được sứ mệnh lớn lao nhưng cũng cực kỳ khó khăn, gian khổ để không lùi bước trước những thách thức.
3. Tạp chí là tấm gương tinh thần, trong đó cán bộ, đảng viên, nhân dân, mỗi tổ chức, đơn vị nhìn thấy bản thân mình.
Tạp chí cần nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự thật, phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhân dân, từ đó, tạo ra một áp lực của dư luận xã hội đấu tranh chống lại những tiêu cực, những trì trệ, thoái hóa biến chất đang kìm hãm sự phát triển của Đảng, của đất nước.
Thực hiện, tăng tính phản biện, Tạp chí sẽ góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội mà nghị quyết của Đảng đã đề ra. Đó là quá trình lấy đối thoại thay cho độc thoại, lấy cạnh tranh lành mạnh thay cho độc quyền và đặc quyền “xin, cho”. Thói quen độc thoại tự dành cho mình quyền được độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết, theo nguyên lý loại trừ, ai không nghe ta tức là chống ta. Đối thoại là biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những tiếng nói trái tai, những ý kiến phản hồi có góc cạnh, nhằm làm phong phú thêm hiểu biết của mình để có thể loại cái giả, giữ cái thật theo nguyên lý bổ sung. Tư duy hiện đại đã vượt qua nguyên lý loại trừ mà bước vào nguyên lý bổ sung: khuyến khích thái độ lắng nghe để tiếp nhận thông tin, nhằm làm cho tri thức của mình luôn luôn mới vì thế mà tạo dựng được phong cách ứng xử khoan dung, cởi mở, thúc đẩy sự hòa hợp, tin cậy lẫn nhau. Không có đối thoại cởi mở và thẳng thắn thì không thể có phản biện xã hội lành mạnh nhằm tạo ra động lực của phát triển. Mục tiêu của phản biện xã hội mà Tạp chí phấn đấu thực hiện là nhằm tạo nên sự đồng thuận trong Đảng, trong xã hội. Đồng thuận là động lực của sự phát triển, xây dựng Đảng, phát triển xã hội, đồng thuận càng cao thì sự phát triển càng bền vững.
Đất nước ta đang đối diện với những thách thức gay gắt từ biển, từ trời, từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những hiểm họa do môi trường bị tàn phá, mỗi một người Việt Nam yêu nước đều khát khao được góp phần mình vào nhiệm vụ chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, Tạp chí phấn đấu để sao cho mỗi trang tạp chí phải là tấm gương tinh thần, trong đó cán bộ, đảng viên, nhân dân nhìn thấy bản thân mình.
4. Cung cấp đầy đủ thông tin chính xác nhằm mở rộng công khai, minh bạch.
Công khai là không giữ kín, để cho mọi người có thể biết. Minh bạch là rõ ràng, rành mạch. Công khai và minh bạch là hai khái niệm khác nhau nhưng quan hệ mật thiết với nhau. Không thể minh bạch nếu thiếu công khai. Công khai, minh bạch gắn với quyền tiếp cận thông tin. Các thông tin đó bao gồm: Các chủ trương, nghị quyết, ý tưởng chỉ đạo của cấp trên; những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thực tiễn; việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kiểm nghiệm tính đúng sai của chủ trương, nghị quyết thông qua thực tiễn; kinh nghiệm hay, hạn chế, yếu kém. Khi Tạp chí cung cấp đầy đủ, chân thực thông tin có phân tích là góp phần xây dựng niềm tin có căn cứ để đi tới hành động chủ động, tự giác cho bạn đọc, là Tạp chí đã nâng tính hấp dẫn và định hướng đúng.
Công khai, minh bạch là để dân chủ tranh luận, thảo luận, tìm ra chân lý hay chí ít cũng tạo ra sự đồng thuận, đoàn kết trong Đảng và trong nhân dân, ví như vấn đề dân chủ. Nội dung Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thực chất là phải đảm bảo dân chủ trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do dân chủ của mọi công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Trong khi Đảng chưa xây dựng được thiết chế để nhân dân tham gia giám sát đảng viên và giám sát Đảng thì trước hết dân phải có quyền biết đến, nghĩa là phải có quyền tham gia gián tiếp vào nội bộ của Đảng. Bởi Đảng lãnh đạo dân cho nên dân phải được theo dõi những bàn thảo, tranh luận, quyết định trong Đảng. Nghĩa là không khép kín như là chuyện nội bộ của Đảng mà phải công khai trước dân, trước dư luận. Theo dõi quá trình hoạt động đó của Đảng là điều kiện tối thiểu nhưng cần thiết để dân thực hiện quyền làm chủ.
Làm chủ và lãnh đạo là hai công việc khác nhau, cũng như dân và đảng viên là hai tư cách khác nhau, nên dân không can thiệp trực tiếp vào nội bộ của đảng. Việc bầu cử trong đảng là việc của đảng viên. Đảng viên bầu ra Ban Chấp hành Trung ương, từ đó bầu ra Bộ Chính trị, Tổng Bí thư... Đây là chuyện của đảng viên. Nhưng Tổng Bí thư, Bộ Chính trị v.v. lại là người của Đảng mà “Đảng ta là Đảng cầm quyền”, nên cũng không thể nói rằng chuyện bầu cử đó chẳng liên quan gì đến dân. Vì dân là chủ nên dân cũng phải biết tại sao, bằng cách nào, đồng chí này được bầu Tổng Bí thư, đồng chí kia ở trong Bộ Chính trị. Trong quy định hiện nay, tất cả các chức vụ lãnh đạo của nước ta, từ Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng... đều do Đảng giới thiệu. Đảng lãnh đạo như vậy là hợp lý. Nhưng vì dân là chủ và vì quyền làm chủ được thực hiện qua Quốc hội. Vấn đề là làm thế nào để dân thấy rằng việc chấp thuận của Quốc hội không phải bị áp đặt. Mà muốn thế thì chỉ có cách duy nhất là làm thế nào để Quốc hội là Quốc hội thực sự của dân, nghĩa là do dân thực sự bầu nên qua tranh luận công khai, tự do, ít nhất giữa hai ứng cử viên.
Trong thực tế Đảng duy nhất cầm quyền, hoàn toàn có khả năng có hai ứng cử viên của Đảng ứng cử vào một chức vụ. Vấn đề ở đây là hai ứng cử viên công khai trình bày chương trình tranh cử để dân thực hiện quyền làm chủ bằng cách chọn người đáp ứng đúng nhất sở nguyện của mình. Đảng lãnh đạo bằng cách cho phép hai (hoặc nhiều) ứng cử viên của mình ra ứng cử trước dân. Dân làm chủ bằng lựa chọn. Cái mới là hai ứng cử viên. Cầm quyền trước hết là vạch hướng. Muốn vạch hướng thì dù chỉ có hai người cũng phải bàn. Nghĩa là tranh luận. Tranh luận trên hai phán đoán, hai ý kiến, hai cách nhìn, hai phương hướng. Đời sống chính trị bất cứ ở đâu và ở thời nào cũng thế. Có khác chăng là ở đây Tạp chí phải lý giải vấn đề trong bối cảnh một đảng duy nhất cầm quyền. Trong hoàn cảnh đó, quyết định đi theo hướng nào, chệch hay không, xu hướng nào thắng, là quyết định của Đảng: Đảng lãnh đạo, Đảng vạch hướng như người hoa tiêu. Suy nghĩ theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng ta là đảng cầm quyền” là thẳng thắn, sòng phẳng, trung thực, thật với mình, thật với dân, mà lại dễ hiểu, lời nói đi đôi với việc làm. Đảng ta là đảng cầm quyền nghĩa là: Đảng ta có quyền cho nên có trách nhiệm. Trách nhiệm luật định, nghĩa là phải theo đúng hiến pháp và luật pháp. Trách nhiệm chính trị, nghĩa là phải chịu phán quyết của dân.
Đảng cầm quyền, dân làm chủ, tranh luận công khai, đó là công khai, minh bạch. Góp phần thực hiện quá trình đó sẽ tăng tính định hướng và hấp dẫn của Tạp chí.
5. Nhạy bén, trí tuệ để phát hiện, lý giải, dự báo, đề xuất những vấn đề mới.
Nhạy bén là khả năng nắm bắt, phát hiện nhanh những yếu tố mới, những yêu cầu mới của tình hình và thể hiện, thích ứng mau lẹ. Điều quan trọng là sâu sát thực tiễn mà phát hiện những vấn đề nảy sinh mà đảng viên, cán bộ, nhân dân quan tâm. Vai trò dự báo và phát hiện của Tạp chí chính là ở chỗ này. Sự nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin, tính chính xác trong nhìn nhận và phân tích sự kiện của Tạp chí sẽ thổi luồng sinh khí vào đời sống, sinh hoạt của các tổ chức đảng.
Tạp chí cần xác định những vấn đề nảy sinh, những nội dung cần phân tích, phản biện, cần công khai, minh bạch rút ra từ quá trình tổng kết nhiệm kỳ, xác định phương hướng cho nhiệm kỳ tới trong từng lĩnh vực tổ chức xây dựng đảng. Đó là những vấn đề về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đảng lãnh đạo hay Đảng cầm quyền, giống và khác nhau của hai khái niệm, nội dung này; bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND; nội dung dân chủ trong công tác cán bộ, đại hội trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư; kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng, tiêu chuẩn đảng viên trong điều kiện mới; vấn đề đảng viên bỏ sinh hoạt; tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân v.v.
Thực hiện những yêu cầu mới trên là Tạp chí đã nâng cao tính định hướng và hấp dẫn, thu hút bạn đọc, góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo, thực hiện sứ mệnh dẫn dắt nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Nguyễn Thuý Hoàn
Nguyên phó TBT Tạp chí Xây dựng Đảng